Bạn đang xem bài viết Một Số Điểm Mới Trong Chương Trình Môn Giáo Dục Công Dân Ở Trung Học Phổ Thông Triển Khai Thời Gian Sắp Tới được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Chương trình giáo dục phổ thông mới được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 404/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 theo đúng tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và tuyên bố của tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc: “Học để biết – Học để làm – Học để chung sống – Học để tự khẳng định mình” nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện chất lượng, hiệu quả giáo dục và phát triển con người Việt Nam cả Đức, Trí, Thể, Mỹ, hướng tới “công dân toàn cầu”.
So với chương trình hiện hành, chương trình Giáo dục công dân ở THPT mới có sự đột phá về quan điểm xây dựng chương trình; mục tiêu chương trình; những yêu cầu cần phải đạt về phẩm chất, năng lực và đặc biệt nội dung chương trình cập nhật những tri thức mới, đáp ứng dạy và học phát triển năng lực học sinh. Cụ thể:
Thứ nhất, về tên gọi của chương trình: Tên gọi cũ là “Giáo dục công dân” nhấn mạnh đến mục tiêu trang bị tri thức về thế giới quan, phương pháp luận triết học cùng đường lối chính sách cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam và những phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì tên gọi mới “Giáo dục kinh tế và pháp luật” coi trọng giáo dục định hướng nghề nghiệp, trang bị cho học sinh những kiến thức chủ yếu về kinh tế và pháp luật, làm hành trang cho các em lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai.
Thứ hai, về vị trí, vai trò của môn học: Theo chương trình Giáo dục phổ thông cũ, tất cả mọi môn học đều là môn bắt buộc, trong đó có môn GDCD. Theo chương trình mới, môn Giáo dục kinh tế và pháp luật thuộc nhóm môn học tự chọn bắt buộc (nhóm Khoa học xã hội: Lịch sử – Địa lý – Giáo dục kinh tế và pháp luật). Sự thay đổi vị trí của môn học từ bắt buộc sang tự chọn bắt buộc không có nghĩa là môn học có vị trí phụ trong chương trình phổ thông mới. Với mục tiêu là định hướng nghề nghiệp, vị trí tự chọn bắt buộc mang lại nhiều cơ hội cho giáo viên và học sinh. Nhiều trường Đại học đã lựa chọn điểm thi môn GDCD làm điểm xét tuyển đầu vào, nhiều học sinh và cả giáo viên giảng dạy GDCD nỗ lực dạy tốt học tốt môn học đáp ứng định hướng lựa chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh.
Thứ ba, cách tiếp cận xây dựng chương trình: Chương trình GDCD ở cấp THPT hiện hành cách tiếp cận xây dựng chương trình GDCD này tập trung vào giáo dục thế giới quan, nhân sinh quan và giá trị quan, phương pháp luận cho công dân tương lai. Do đó, ngay khi bước vào học kỳ 1 của lớp 10, học sinh được học những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin dưới dạng khái quát nhất cùng những phạm trù cốt lõi nhất về đạo đức. Trong các học kỳ tiếp theo, học sinh sẽ được học nội dung về thể chế chính trị cùng các quan điểm, đường lối chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về dân số, việc làm, tài nguyên thiên nhiên, giáo dục, đào tạo, khoa học.
Chương trình GDCD mới, được xây dựng trên cơ sở: đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; các thành tựu nghiên cứu về tâm lý học, giáo dục học, đạo đức học, luật học, chính trị học, kinh tế chính trị và kinh tế học; các giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và giá trị chung của nhân loại; thực tiễn xã hội, giáo dục, điều kiện kinh tế và truyền thống văn hóa Việt Nam… Chương trình môn Giáo dục công dânchú trọng tích hợp nhiều nội dung giáo dục cơ bản, thiết thực, hiện đại về giá trị sống, kỹ năng sống, đạo đức, pháp luật, kinh tế. Nội dung chương trình môn Giáo dục kinh tế và pháp luật được xây dựng theo hướng phát triển tuyến tính, xoay quanh các quan hệ kinh tế và pháp luật, từ kinh tế vĩ mô đến kinh tế vi mô, từ hệ thống chính trị và nhà nước, pháp luật và hệ thống pháp luật đến những nội dung, lĩnh vực pháp luật cụ thể.
Thứ tư, về nội dung giáo dục: Trong kết cấu của chương trình hiện hành, học sinh lớp 10 học về các vấn đề Triết học và đạo đức. Học sinh lớp 11 học chủ yếu về các vấn đề kinh tế và các đường lối chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Học sinh lớp 12 sẽ học về pháp luật. Sau khi học xong chương trình, học sinh phổ thông có kiến thức đa dạng, tự tin hòa nhập cuộc sống khi trở thành người trưởng thành.
Trong chương trình mới, học sinh lớp 10, lớp 11 và lớp 12 đều được học về nội dung kinh tế và pháp luật theo kiểu đồng tâm và tuyến tính. Chẳng hạn lớp 10 học về “Thị trường và cơ chế thị trường” đến “Cạnh tranh, cung cầu trong kinh tế thị trường” (lớp 11) đến “Tăng trưởng và phát triển kinh tế; Hội nhập kinh tế quốc tế” (lớp 12). Đặc điểm chương trình mới bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các lớp học, cấp học với nhau và liên thông với chương trình giáo dục mầm non, chương trình giáo dục nghề nghiệp và chương trình giáo dục đại học.
Những nét mới trong chương trình GDCD so với chương trình hiện hành nhằm xây dựng nền giáo dục với chương trình hiện đại, bắt kịp nhịp phát triển của các nước có nền giáo dục tiên tiến; bước đầu đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người học, phục vụ quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trần Quang Minh
Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông 2022 Ở Cấp Tiểu Học
BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018 Ở CẤP TIỂU HỌC
I. GIÁO DỤC TIỂU HỌC THEO CHƯƠNG TRÌNH GDTP 2018 (Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018) 1. Nội dung của giáo dục Tiểu học theo Chương trình GDPT 2018 Chương trình 2018 bao gồm quy định chương trình tổng thể, quy định chương trình môn học và hoạt động giáo dục của Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học Phổ thông. Trong đó, đối với cấp Tiểu học có một số nội dung cốt lõi sau: a) Môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc trong chương trình mới. (10 môn học và 01 hoạt động) – Gồm: 1) Tiếng Việt; 2) Toán; 3) Đạo đức; 4) Ngoại ngữ 1 (Lớp 3,4,5); 5) Tự nhiên và xã hội (Lớp 1,2,3); 6) Lịch sử và Địa lí (Lớp 4, 5); 7) Khoa học (Lớp 4, 5); 8) Tin học và Công nghệ (Lớp 3, 4, 5); 9) Giáo dục thể chất; 10) Nghệ thuật (Âm nhạc và Mĩ Thuật) và Hoạt động trải nghiệm (trong đó có tích hợp nội dung giáo dục của địa phương). b) Các môn học tự chọn (dạy ở những nơi có đủ điều kiện dạy học và phụ huynh học sinh có nguyện vọng) Tiếng dân tộc thiểu số (dạy từ lớp 1 đến lớp 5); Ngoại ngữ 1 (dạy ở lớp 1, 2). Bảng 1: So sánh kế hoạch giáo dục ở lớp 1 theo Chương trình hiện hành và Chương trình 2018
Kế hoạch giáo dục tiểu học theo chương trình 2018 Kế hoạch giáo dục tiểu học hiện hành theo QĐ Số 16/2006
Nội dung giáo dục Số tiết trong một năm Nội dung giáo dục Số tiết trong một năm
Lớp 1 Lớp 1
I. Môn học bắt buộc I. Môn học bắt buộc
1. Tiếng Việt 420 1.Tiếng Việt 350
2. Toán 105 2. Toán 140
3. Đạo đức 35 3. Đạo đức 35
4. Tự nhiên-Xã hội 70 4. TN-XH 35
5. Nghệ thuật (Âm nhạc, Mỹ thuật) 70 5. Âm nhạc 35
6. Mĩ thuật 35
7. Thủ công 35
6. Giáo dục thể chất 70 8. Thể dục 35
II. Hoạt động giáo dục bắt buộc II. Hoạt động giáo dục bắt buộc
1. Hoạt động trải nghiệm (Tích hợp thêm giáo dục địa phương) 105 1. Giáo dục tập thể (sinh hoạt lớp và chào cờ đầu tuần) 70
2. Giáo dục ngoài giờ lên lớp (4 tiết/tháng) 35
III. Môn học tự chọn III. Môn học tự chọn
1. Tiếng dân tộc thiểu số 70 1. Tin học
2. Ngoại ngữ 1 70 2. Tiếng Anh
3. Tiếng dân tộc
Tổng số tiết trong một năm (không tính tự chọn) 875 Tổng số tiết trong một năm 805
Số tiết trung bình trên tuần (không tính tự chọn) 25 Số tiết trung bình trên tuần 23
Kế hoạch giáo dục tiểu học theo Chương trình 2018 Kế hoạch giáo dục tiểu học hiện hành theo QĐ Số 16/2006
Nội dung giáo dục Số tiết trong một năm Nội dung giáo dục Số tiết trong một năm
Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 1 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 5
I. Môn học bắt buộc I. Môn học bắt buộc
1. Tiếng Việt 420 350 245 245 245 1.Tiếng Việt 350 315 280 280 280
2. Toán 105 175 175 175 175 2. Toán 140 175 175 175 175
3. Đạo đức 35 35 35 35 35 3. Đạo đức 35 35 35 35 35
4. Tự nhiên và xã hội 70 70 70 4. Tự nhiên xã hội 35 35 70
5. Khoa học 70 70 5. Khoa học 70 70
6. Lịch sử và Địa lý 70 70 6. Lịch sử và Địa lí 70 70
7. Nghệ thuật 70 70 70 70 70 7. Âm nhạc 35 35 35 35 35
8. Mĩ thuật 35 35 35 35 35
9. Thủ công 35 35 35
8. Tin học và Công nghệ 70 70 70 10. Kĩ thuật 35 35
9. Giáo dục thể chất 70 70 70 70 70 11. Thể dục 35 70 70 70 70
10. Ngoại ngữ 1 140 140 140
II. Hoạt động giáo dục bắt buộc II. Hoạt động giáo dục bắt buộc
1. Hoạt động trải nghiệm (Tích hợp thêm giáo dục địa phương) 105 105 105 105 105 1. Giáo dục tập thể (sinh hoạt lớp và chào cờ đầu tuần) 70 70 70 70 70
2. Giáo dục ngoài giờ lên lớp (4 tiết/tháng) 35 35 35 35 35
III. Môn học tự chọn III. Môn học tự chọn
1. Tiếng dân tộc thiểu số 70 70 70 70 70 1. Tin học Đây là những môn học được bổ sung sau và được tổ chức thực hiện không đồng đều và chất lượng thấp
2. Ngoại ngữ 1 70 70 2. Tiếng Anh
3. Tiếng dân tộc
Tổng số tiết trong một năm (không tính tự chọn) 875 875 980 1050 1050 Tổng số tiết trong một năm 805 840 840 910 910
Số tiết trung bình trên tuần (không tính tự chọn) 25 25 28 30 30 Số tiết trung bình trên tuần 23 24 24 26 26
Bảng 2: So sánh kế hoạch giáo dục tiểu học theo Chương trình hiện hành và Chương trình 2018
c) Nhận xét chung – So với Chương trình hiện hành, Chương trình 2018 có ít môn học hơn do thực hiện chủ trương tích hợp cao ở các lớp dưới. Tuy nhiên, trong Chương trình 2018 có thêm 2 môn học mới là Ngoại ngữ 1; Tin học và Công nghệ. Đối với một số địa phương, việc bổ sung giáo viên Tin học và Tiếng Anh là thách thức không nhỏ, nhất là trong tình hình tinh giản biên chế hiện nay. Chương trình 2018 là chương trình học 2 buổi/ngày, do đó số tiết học trong một năm học đều tăng lên, cụ thể: +) Lớp 1, 2 có: 07 môn học và 01 hoạt động bắt buộc, số tiết bình quân trên tuần là 25 (chưa tính môn tự chọn). (Chương trình hiện hành có 10 môn và 23 tiết trên tuần). +) Lớp 3 có: 08 nôn học và 01 hoạt động bắt buộc, số tiết bình quân trên tuần là 28 tiết (Chương trình hiện hành có 10 môn và 24 tiết trên tuần) +) Lớp 4, 5 có: 10 môn học và 01 hoạt động bắt buộc, số tiết bình quân trên tuần là 30 tiết. (Chương trình hiện hành có 11 môn, và 26 tiết trên tuần ) Bảng so sánh môn học và thời lượng của chương trình hiện hành và chương trình mới.
Môn học/HĐGD Số tiết trong CT mới Số tiết trong CT hiện hành Ghi chú
Tiếng Việt/Ngữ Văn 1505 1505 Không đổi
Toán 805 840 Giảm 35 tiết
Ngoại ngữ 1 420 0 Bổ sung môn học bắt buộc
Đạo đức 175 175 Không đổi
Tự nhiên và Xã hội 210 140 Tăng 70 tiết (bổ sung cho lớp 1 và lớp 2)
Lịch sử và Địa lí 140 140 Không đổi
Khoa học 140 140 Không đổi
Thủ công 0 105 Thay môn học mới, tăng 35 tiết (Bổ sung nội dung Tin học là môn bắt buộc)
Kĩ thuật 70
Tin học và Công nghệ 210 0
Giáo dục thể chất 350 315 Tăng 35 tiết
Nghệ thuật (AN, MT) 350 0 Thay tên môn học mới, số tiết không đổi
Âm nhạc 0 175
Mĩ thuật 0 175
Giáo dục tập thể 0 350 Thay tên hoạt động giáo dục, thời lượng không đổi
Hoạt động ngoài giờ lên lớp 0 175
Hoạt động trải nghiệm 525 0
Tổng số tiết/năm 4830 4305 Tăng 525 tiết, chủ yếu do tăng các môn học bắt buộc: Ngoại ngữ, Tin học
– Định hướng chung của đổi mới chương trình là hướng đến phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Theo đó, học sinh cần tích cực, chủ động tham gia các hoạt động học tập; được tìm tòi, khám phá; được làm việc độc lập, hợp tác, trao đổi theo nhóm hay lớp, trong đó các em được tạo điều kiện để tự mình thực hiện nhiệm vụ học tập và trải nghiệm thực tế. Tăng cường “tương tác” (giữa: học sinh – giáo viên; học sinh – học sinh; học sinh – Thiết bị dạy học; học sinh – môi trường nơi các em sinh sống; …). Các em được tạo cơ hội bộc lộ, phát huy tiềm năng và những kiến thức, kĩ năng đã tích lũy được để phát triển. Dạy học hướng tới đáp ứng nhu cầu phát triển của từng cá nhân học sinh được chú trọng. – Chương trình 2018 là chương trình mở, theo đó địa phương, nhà trường, giáo viên có nhiều quyền và trách nhiệm hơn trong quá trình phát triển, triển khai chương trình giáo dục cho phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn. Điều này đòi hỏi mỗi nhà trường phải đổi mới nhiều trong hoạt động quản lí chuyên môn, phát triển chương trình giáo dục đến từng cấp, từng khối lớp, từng lớp, thậm chí từng nhóm đối tượng học sinh, từng học sinh. – Chương trình 2018 ở cấp tiểu học thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học, mỗi tiết 35 phút. Việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày là một trong những thách thức đối với một số địa phương có tỷ lệ phòng học/lớp còn thấp, tỷ lệ giáo viên/lớp chưa đáp ứng được yêu cầu. Theo thống kê hiện nay toàn quốc có trên 80% số học học sinh trong cả nước đang được học 2 buổi/ngày theo Chương trình hiện hành. Nguyên nhân một số địa phương chưa tổ chức được cho học sinh học 2 buổi/ngày là khó khăn về quỹ đất, kinh phí và điều kiện sống của người dân. Để thực hiện được quy định của chương trình mới, bảo đảm cho con em địa phương không thiệt thòi so với học sinh những nơi khác, các địa phương thực hiện giải pháp sau: Cân đối quỹ đất, kinh phí để mỗi năm theo lộ trình thực hiện dứt điểm việc dạy học 2 buổi/ngày ở một lớp học theo lộ trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông như quy định tại Nghị quyết 51 của Quốc hội. Tuy nhiên, có thể thấy là những cơ sở giáo dục bố trí dạy học được 6 buổi/tuần thì đều có thể thực hiện được đầy đủ Chương trình. Các cơ sở giáo dục chưa đủ điều kiện dạy học 2 buổi/ngày thực hiện kết hoạch giáo dục theo hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. II. CÁC GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH 2018 Ở CẤP TIỂU HỌC 1. Tổ chức thực hiện hiệu quả nội dung Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ và Công văn số 344/BGDĐT-GDTrH ngày 24/01/2019 về việc đẩy mạnh thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2018 của Thủ tướng Chính phủ đã giao giao Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện các nội dung sau: – Chỉ đạo ngành giáo dục tổ chức triển khai kế hoạch thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo phù hợp với điều kiện của địa phương; – Tổ chức rà soát, đánh giá thực trạng, xác định nhu cầu giáo viên ở từng môn học, lớp học, cấp học; chủ động xây dựng kế hoạch sắp xếp, bổ sung đội ngũ và phối hợp với các cơ sở đào tạo giáo viên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên để thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; – Tổ chức rà soát, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục phổ thông theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; – Điều chỉnh, sắp xếp để sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện có; xây dựng kế hoạch đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm bổ sung thiết bị dạy học để thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; – Bố trí ngân sách địa phương, lồng ghép có hiệu quả và sử dụng đúng mục đích nguồn vốn từ các chương trình, đề án, dự án; huy động các nguồn tài chính hợp pháp khác để thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới; – Đẩy mạnh truyền thông về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông tại địa phương; biểu dương kịp thời gương người tốt, việc tốt trong thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; – Tổ chức kiểm tra, giám sát, tổng hợp, đánh giá tình hình và kết quả thực hiện, hàng năm gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Đề nghị các địa phương tổ chức sơ kết 01 năm thực hiện Công văn số 344/BGDĐT-GDTrH ngày 24/01/2019 của Bộ GDĐT về Hướng dẫn triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018. 2. Tăng cường cơ sở vật chất để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày a) Thực trạng – Hiện tại tỷ lệ phòng học của Tiểu học trung bình chung cả nước là 0,89 (Miền núi phía Bắc 0,90; Tây Nguyên 0,85; Tây Nam Bộ 0,7) để tổ chức dạy học 2 buổi/ngày ở cấp Tiểu học thì tỷ lệ phòng học phải đạt 1,0 (1 lớp/1 phòng học). – Tỷ lệ học sinh tiểu học 2 buổi/ngày trên toàn quốc hiện nay gần 80%. Nhiều địa phương đã đạt tỉ lệ 100% học sinh học 2 buổi/ngày như: Nam Định, Bắc Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hà Nam. Tỉ lệ học sinh học 2 buổi/ngày thấp tập trung ở 02 khu vực: các tỉnh miền núi hoặc có đông học sinh dân tộc; khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp do dân số tăng cơ học quá nhanh. b) Giải pháp Các địa phương cấp tỉnh tập trung chỉ đạo các địa phương cấp huyện tập trung nguồn lực, lồng ghép các nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình, đề án về tăng cường cơ sở vật chất để đủ phòng học theo lộ trình thực hiện sách giáo khoa ở cấp Tiểu học, tổ chức các đoàn kiểm tra, khảo sát một số địa phương khó khăn để tăng cường chỉ đạo và hỗ trợ thực hiện. Để đảm bảo đủ điều kiện cơ sở vật chất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án đảm bảo cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2017-2025 theo Quyết định số 1436/QĐ-TTg ngày 29 tháng 10 năm 2018 với mục tiêu: Bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, thiết bị trường học để thực hiện chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục phổ thông theo lộ trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa, cụ thể: Giai đoạn 2017-2020 đối với cấp Tiểu học đã được phê duyệt và phân bổ về các địa phương: – Kiên cố hóa trường, lớp học: Đầu tư xây dựng 5.900 phòng học tiểu học thay thế các phòng học tạm thời (bao gồm: phòng học tranh tre, nứa lá, đã hết niên hạn sử dụng, đang xuống cấp, cần xây dựng lại; phòng học nhờ, mượn, thuê tại các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo. – Xây dựng bổ sung: 6.000 phòng học; 7.770 phòng chức năng (giáo dục thể chất, giáo dục nghệ thuật, tin học, ngoại ngữ, thiết bị giáo dục, hỗ trợ giáo dục khuyết tật học hòa nhập); 3.420 phòng thư viện; – Mua sắm bổ sung: 39.070 bộ thiết bị dạy học tối thiểu khối lớp 1 và lớp 2; 258.620 bộ bàn ghế hai chỗ ngồi; 13.910 bộ máy tính; 1.980 bộ thiết bị phòng học ngoại ngữ. Bộ GDĐT đã có Công văn số 428/BGDĐT-CSVC ngày 30/1/2019 về thực hiện Đề án đảm bảo cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2017-2025, để chỉ đạo hướng dẫn các địa phương tổ chức hiệu quả và đúng tiến độ. 3. Chuẩn bị đội ngũ giáo viên để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 a) Thực trạng – Tỷ lệ giáo viên/lớp trên toàn quốc là 1,38 cơ bản đủ để thực hiện dạy học 2 buổi/ngày khi triển khai chương trình GDPT 2018 ở lớp 1, tuy nhiên số giáo viên đang thực hiện chế độ hợp đồng lao động khá nhiều (biên chế chính thức đạt tỷ lệ 85%), số giáo viên chưa được xét tuyển biên chế chính thức không yên tâm công tác) trong đó số lượng giáo viên đối với các môn học mới ở cấp Tiểu học khi thực hiện chương trình mới chưa đáp ứng yêu cầu như môn Tiếng Anh, Tin học. b) Giải pháp Bộ Giáo dục và Đào tạo đã báo cáo Chính phủ về đề xuất định biên cho ngành giáo dục khi thực hiện chương trình mới, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ thực hiện và Bộ Nội vụ đã có Công văn số 1495/BNV-TCBC ngày 05/4/2019 về việc yêu cầu UBND các tỉnh thành phố rà soát bổ sung biên chế sự nghiệp cho ngành giáo dục và y tế để có phương án giao bổ sung trong thời gian tới, hiện nay các địa phương đã tiến hành rà soát theo thẩm quyền và gửi về Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo để báo cáo Chính phủ. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Nội vụ chỉ đạo các địa phương thực hiện việc tuyển dụng viên chức ngành giáo dục kịp thời, đúng qui định và Bộ Nội vụ tiếp tục có Công văn số 5378/BNV-CCVC ngày 05/11/2019 về việc tuyển dụng đặc cách đối với giáo viên đã có hợp đồng lao động và đóng BHXH từ năm 2015 trở về trước. Theo chương trình hiện hành môn Tin học và Tiếng Anh là môn tự chọn nên các địa phương chưa có căn cứ để tuyển giáo viên. Tuy nhiên theo Thông tư 32 về Ban hành chương trình 2018, môn Tiếng Anh và Tin học là môn học bắt buộc, vì vậy đây là căn cứ pháp lí để các địa phương tiến hành tuyển dụng giáo viên theo vị trí việc làm đảm bảo thực hiện chương trình mới. Vì vậy, các địa phương cần phải chú ý chỉ đạo các trường tiểu học xây dựng bổ sung vị trí việc làm đối với 2 môn học này, xây dựng vị trí định biên đủ định mức số tiết quy định. Lộ trình thực hiện sẽ từ năm học 2020- 2021 và đến năm học 2025- 2026 phải đảm bảo đủ số lượng giáo viên theo định mức và thành phần giáo viên bộ môn đủ và cân đối hợp lí giữa các môn theo quy định của chương trình và Thông tư 32 là căn cứ pháp lý để các địa phương chỉ đạo các trường Tiểu học, bổ sung vào vị trí việc đối với giáo viên môn Tin học và Tiếng Anh. Các địa phương có tỷ lệ giáo viên thấp cần tiến hành lên phương án tuyển dụng giáo viên để đảm bảo thực hiện dạy học 2 buổi/ngày (Sơn La, Thanh Hóa, Đồng Tháp; Hà Giang; Tuyên Quang; Hưng Yên…) đặc biệt ưu tiên tuyển dụng giáo viên Tin học và Tiếng Anh. 4. Phối hợp thực hiện tốt công tác bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình 2018 và sách giáo khoa mới Bộ GDĐT đã có Công văn số 4960/BGDĐT-GDTH ngày 31/10/2019 về việc tổ chức Hội nghị triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018 đối với cấp Tiểu học để chỉ đạo các địa phương tiến hành tổ chức thực hiện kịp tiến độ. Về mô hình bồi dưỡng, Bộ GDĐT hiện nay xây dựng mô hình bồi dưỡng thường xuyên, liên tục, tại chỗ. Theo đó, hệ thống quản lý học tập qua mạng (LMS) đảm bảo cung cấp học liệu tới tất cả giáo viên (cốt cán và đại trà). Trong đó, đội ngũ cốt cán được bồi dưỡng theo hình thức học kết hợp giữa qua mạng và trực tiếp. Đội ngũ đại trà tự học qua mạng với sự hỗ trợ thường xuyên, liên tục, tại chỗ từ đội ngũ đại trà của các địa phương. Các địa phương cần chú ý tổ chức phối hợp thực hiện Kế hoạch tập huấn theo các chương trình, kế hoạch mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành cụ thể có các đối tượng sau: a) Bồi dưỡng cấp Trung ương: – Lãnh đạo cấp sở, phòng giáo dục đào tạo. Trong tháng 10 năm 2019, Bộ GDĐT đã tổ chức bồi dưỡng mỗi sở giáo dục và đào tạo 05 người về “Chuẩn bị điều kiện tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018”, gồm: 01 Lãnh đạo Sở, 02 Lãnh đạo (chuyên viên) Phòng Giáo dục Trung học, 02 Lãnh đạo (chuyên viên) Phòng Giáo dục Tiểu học. Mỗi phòng giáo dục đào tạo 01 người là Trưởng phòng. – CBQL cơ sở giáo dục phổ thông cốt cán. Mỗi cụm 07 trường phổ thông lựa chọn và giới thiệu 01 hiệu trưởng cốt cán để tham dự bồi dưỡng mô đun 1 về “Quản trị hoạt động dạy học, giáo dục trong trường tiểu học” trong tháng 12 năm 2019. Bồi dưỡng Hiệu trưởng các trường tiểu học đại trà về mô đun 1 từ tháng 01 đến tháng 3 năm 2020. – Giáo viên cốt cán: mỗi trường tiểu học có 01 giáo viên được lựa chọn và cử đi bồi dưỡng giáo viên tiểu học cốt cán về mô đun 1: “Hướng dẫn thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông 2018” trong tháng 11 năm 2019. – Tổ trưởng chuyên môn cốt cán: Cấp Tiểu học: Mỗi sở giáo dục và đào tạo cử 42 tổ trưởng chuyên môn (tập trung cho khối lớp 1) tham gia các lớp bồi dưỡng theo các môn học, hoạt động giáo dục trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 như sau: Tiếng Việt (06 người); Toán (06 người); Đạo đức (05 người); Tin học và Công nghệ (04 người), Giáo dục Thể chất (4 người), Âm nhạc (4 người), Mĩ Thuật (4 người), Hoạt động trải nghiệm (4 người); môn Tự nhiên và Xã hội và môn Khoa học cử tất cả là 05 người. – Giáo viên giảng dạy lớp 1 khi thực hiện chương trình mới: 100% giáo viên giảng dạy lớp 1 năm học 2020-2021 phải được bồi dưỡng để dạy chương trình mới. Cụ thể, mỗi lớp 1 phải bồi dưỡng cho ba đối tượng: Giáo viên dạy môn chung, giáo viên dạy âm nhạc, giáo viên dạy mỹ thuật (toàn quốc dự kiến năm học 2020-2021 có khoảng 63.500 lớp 1) đối tượng này địa phương phải chủ động thực hiện bồi dưỡng bằng ngân sách địa phương phải thực hiện xong trước tháng 12 năm 2019 để thời gian sau đó sẽ dành thời gian tập huấn sử dụng sách giáo khoa. b) Bồi dưỡng cấp địa phương: – Các địa phương xây dựng Kế hoạch bồi dưỡng giáo viên theo định hướng trên và tham mưu phương án bố trí kinh phí để thực hiện bồi dưỡng cho các đối tượng đúng tiến độ. 5. Thực hiện sắp xếp lại mạng lưới trường lớp, dồn dịch điểm trường đối với cấp tiểu học phải tuân thủ theo quy định của chương trình GDPT 2018 a) Thực trạng hiện nay – Toàn quốc hiện có 13.995 trường tiểu học (với 17.609 điểm trường), trong đó số trường tiểu học công lập là 13.735 (giảm 1.052 trường và gần 3000 điểm trường so với năm học trước) có 260 trường ngoài công lập; tỉ lệ trung bình trường tiểu học/xã là 1,25; tỉ lệ trung bình điểm trường/trường tiểu học là 1,26; nhiều trường tiểu học có từ 3 đến 5 điểm trường (chủ yếu ở các vùng miền núi). – Với quy mô trường và điểm trường như trên việc thực hiện sáp nhập các trường Tiểu học có quy mô nhỏ lại với nhau hoặc sáp nhập trường Tiểu học với trường THCS có quy mô nhỏ, hoặc sáp nhập các điểm trường lại với nhau là điều cần thiết và đúng với chủ trương chỉ đạo hiện nay theo Nghị quyết 18, 19 của Đảng. – Tuy nhiên khi thực hiện phải dựa trên Nguyên tắc “tạo thuận lợi cho người dân, đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh; phù hợp với quy hoạch đáp ứng được các yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục”. b) Giải pháp chỉ đạo thực hiện Bộ GDĐT đã có Công văn số 3712/BGDĐT-CSVC ngày 24 tháng 8 năm 2018 về hướng dẫn thực hiện rà soát sắp xếp, tổ chức lại cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông để chỉ đạo hướng dẫn các địa phương thực hiện. Cụ thể: – Thực hiện dồn dịch điểm trường và các trường tiểu học có quy mô nhỏ Thực hiện dồn dịch các điểm trường, trường tiểu học có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất không đảm bảo, thành những điểm trường, trường tiểu học có quy mô lớn hơn để tập trung nguồn lực đầu tư kiên cố, đủ các hạng mục đảm bảo để thực hiện đầy đủ các hoạt động dạy học (sân chơi, bãi tập, nhà vệ sinh, phòng học, phòng bộ môn,…) để đảm bảo công bằng giữa điểm trường và cơ sở trường chính. Khi sáp nhập các trường, điểm trường nhỏ thành các trường, điểm trường lớn nếu cách xa nhà học sinh không thể đi về cần tính toán đến phương án tổ chức ăn bán trú, đầu tư các hạng mục phụ trợ để đảm bảo tổ chức ăn trưa cho học sinh, đảm bảo thực hiện dạy học 2 buổi/ngày theo quy định của chương trình giáo dục phổ thông 2018. Các điểm trường không bố trí đủ phòng chức năng dạy học các môn tin học và ngoại ngữ, chỉ tổ chức dạy học cho học sinh lớp 1, 2. Học sinh lớp 3, 4, 5 được đưa về trường chính để được học đầy đủ các môn học bắt buộc theo quy định của chương trình. – Sáp nhập các trường tiểu học liên cấp Chỉ sáp nhập các trường có quy mô nhỏ ở cùng địa bàn cấp xã; các trường tiểu học có quy mô dưới 10 lớp, xem xét ghép với trường trung học cơ sở trên cùng địa bàn xã; các xã có 2 đến 3 trường tiểu học, xem xét sáp nhập thành một trường nhưng phải đảm bảo đủ điều kiện cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên và các điều kiện cụ thể như: + Đảm bảo sĩ số học sinh/lớp theo quy định; đồng thời có giải pháp phù hợp thuận lợi, an toàn cho việc đi lại của học sinh khi đến trường; không để xảy ra tình trạng học sinh bỏ học do phải đi lại quá xa; + Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý các trường sau sáp nhập; + Việc sáp nhập để hình thành các trường tiểu học với trường trung học cơ sở phải phân khu vực riêng biệt cho từng cấp học nhằm đảm bảo tính đặc thù (về thời lượng tiết học, hình thức tổ chức dạy học…) tránh làm ảnh hưởng đến hoạt động dạy và học của mỗi cấp học; – Chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, cơ sở vật chất tại những trường, điểm trường được chuyển đi đảm bảo phù hợp với quy hoạch, hiệu quả, tránh lãng phí. – Thực hiện chế độ cho người học Quan tâm đầu tư cơ sở vật chất và chế độ hỗ trợ cho học sinh để tổ chức thực hiện bán trú tại các điểm trường, các trường có học sinh ở xa để đảm bảo việc tổ chức dạy học 2 buổi/ngày theo quy định của chương trình giáo dục phổ thông mới. III. CÁC GIẢI PHÁP TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH VÀ SGK LỚP 1 1. Chỉ đạo tổ chức thực hiện các văn bản hướng dẫn chuyên môn đối với cấp Tiểu học khi triển khai chương trình GDPT 2018 Để tổ chức thực hiện Chương trình GDPT 2018 đối với cấp Tiểu học đặc biệt là đối với lớp 1 bắt đầu thực hiện từ năm học 2020-2021, Bộ GDĐT đã ban hành các văn bản hướng dẫn, các địa phương, nhà trường thực hiện (các văn bản kèm theo) gồm: - Công văn số 3866/BGDĐT-GDTH ngày 26 tháng 8 năm 2019 về Hướng dẫn tổ chức dạy học lớp 1 từ năm học 2020-2021. - Công văn số 3536/BGDĐT-GDTH ngày 19 tháng 8 năm 2019 về Hướng dẫn biên soạn, thẩm định nội dung giáo dục của địa phương cấp tiểu học trong Chương trình GDPT 2018. - Công văn số 3535/BGDĐT-GDTH ngày 19 tháng 8 năm 2019 4 về Hướng dẫn thực hiện nội dung Hoạt động trải nghiệm ở cấp tiểu học trong chương trình GDPT 2018. - Công văn số 3539/BGDĐT-GDTH ngày 19 tháng 8 năm 2019 4 về Hướng dẫn tổ chức dạy học Tin học và tổ chức hoạt động tin học ở cấp tiểu học. Trong tháng 12 năm 2019, bộ GDĐT đang khẩn trương hoàn thiện và ban hành các văn bản sau: – Hướng dẫn tổ chức dạy học môn Tiếng Anh theo Chương trình GDPT 2018. – Hướng dẫn đánh giá học sinh lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018. – Hướng dẫn tổ chức sinh hoạt tổ chuyên môn theo Chương trình GDPT 2018. 2. Tổ chức thẩm định và công bố kết quả thẩm định SGK lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018 Để tiến hành tổ chức thẩm định SGK lớp 1 theo Chương trình GDPT 2018, Bộ trưởng Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) đã thành lập Ban tổ chức, các Hội đồng quốc gia thẩm định sách giáo khoa lớp 1 (Hội đồng). Đến nay, các Hội đồng đã kết thúc các vòng thẩm định và bàn giao cho Bộ GDĐT các bản mẫu SGK được đánh giá mức “Đạt”, kết quả thẩm định sách giáo khoa (SGK) lớp 1 và kế hoạch triển khai trong thời gian tới cụ thể như sau: a. Quy trình biên soạn, thẩm định SGK phổ thông Bộ GDĐT đã ban hành Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT ngày 22/12/2017 quy định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa SGK; tiêu chuẩn, tổ chức cá nhân biên soạn SGK; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định SGK (Thông tư số 33) cụ thể như sau: – Quy trình biên soạn SGK: Tổ chức, cá nhân biên soạn SGK đăng ký và nộp bản thảo SGK đến nhà xuất bản. Đơn vị đề nghị thẩm định SGK là nhà xuất bản được thành lập theo quy định của pháp luật, trong đó việc tổ chức xuất bản SGK phải được ghi trong giấy phép thành lập nhà xuất bản. Nhà xuất bản tổ chức biên tập, hoàn thành bản mẫu SGK; phối hợp với tổ chức, cá nhân biên soạn SGK tổ chức thực nghiệm SGK. Bộ GDĐT tổ chức thẩm định bản mẫu SGK theo quy định. Nhà xuất bản có SGK được thẩm định phối hợp với tổ chức, cá nhân biên soạn SGK hoàn thiện bản mẫu SGK sau thẩm định. Bộ trưởng Bộ GDĐT phê duyệt, cho phép sử dụng SGK. Dựa vào các tiêu chuẩn, tiêu chí nói trên, Bộ GDĐT đã tổ chức các hội thảo chuyên sâu gồm các chuyên gia giỏi, có nhiều kinh nghiệm về chương trình giáo dục phổ thông, trong lĩnh vực biên soạn và thẩm định SGK; các nhà quản lí giáo dục, các giáo viên đang trực tiếp giảng dạy, các chuyên gia quốc tế để phân tích và xây dựng hệ thống các minh chứng cần đạt trong SGK khi tiến hành thẩm định. b. Tổ chức thẩm định SGK lớp 1 theo chương trình giáo dục phổ thông 2018 – Ban hành kế hoạch thẩm định và thông báo tổ chức thẩm định Bộ GDĐT đã ban hành Kế hoạch số 544/KH-BGDĐT ngày 24/6/2019 về việc tổ chức thẩm định SGK lớp 1 và Thông báo số 543/TB-BGDĐT về việc tổ chức thẩm định SGK lớp 1. Đến hết thời hạn Thông báo, Bộ GDĐT đã tiếp nhận các bản mẫu SGK từ 03 đơn vị đề nghị thẩm định, gồm Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Qua quá trình rà soát, kiểm tra và đối chiếu với quy định tại Thông tư số 33 đối với từng hồ sơ của mỗi bộ SGK, Bộ GDĐT đã tiếp nhận tổng số 49 bản thảo SGK đề nghị thẩm định đối với 09 môn học ở lớp 1 như sau: Môn Tiếng Việt: 6 bản thảo; Môn Toán: 6 bản thảo; Môn Đạo Đức: 6 bản thảo; Môn Tự nhiên-Xã hội: 5 bản thảo; Môn Giáo dục thể chất: 4 bản thảo; Môn Nghệ thuật (Âm nhạc): 5 bản thảo; Môn Nghệ thuật (Mĩ thuật): 5 bản thảo; Hoạt động trải nghiệm: 6 bản thảo; Môn Tiếng Anh: 6 bản thảo. – Tổ chức thẩm định và kết quả thẩm định Hội đồng thẩm định SGK được thực hiện theo hai vòng (vòng 1, vòng 2), dựa trên các tiêu chí, tiêu chuẩn và các minh chứng cần đạt của từng bản thảo SGK và kết luận ở ba mức: Đạt, Đạt nhưng cần sửa chữa, Không đạt và kết quả cụ thể như sau: + Có 38/49 bản thảo sách giáo khoa lớp 1 ở tất cả 9 môn học/hoạt động giáo dục (77,70%) được các HĐTĐ đánh giá là “Đạt” và đang tiến hành các bước rà soát cuối cùng để đề nghị Bộ trưởng xem xét phê duyệt. + Có 11/49 bản thảo sách giáo khoa lớp 1 ở 6 môn học/hoạt động giáo dục (22,3%) được HĐTĐ đánh giá “Không đạt”, cụ thể: Môn Tiếng Việt: 01/6 bản thảo; Môn Toán: 01/6 bản thảo; Môn Giáo dục Thể chất: 03/4 bản thảo; Hoạt động trải nghiệm: 03/6 bản thảo; Môn TN-XH: 02/5 bản thảo; Môn Đạo Đức: 01/6 bản thảo. Hầu hết các tác giả có bản mẫu SGK xếp loại “Không Đạt” đều có nguyện vọng và gửi đơn (thông qua NXB) đề nghị về Bộ GDĐT để được tiếp tục chỉnh sửa, biên soạn lại theo góp ý của các Hội đồng để tiếp tục trình thẩm định lại theo qui định, Bộ GDĐT sẽ tổ chức thẩm định lại vào cuối tháng 11 năm 2019. c) Công bố kết quả thẩm định SGK lớp 1 Bộ GDĐTsẽ tổ chức họp báo công bố công khai kết quả thẩm định SGK lớp 1 vào ngày 22/11/2019 để các địa phương, nhà trường thực hiện các nội dung chuẩn bị cho năm học 2020-2021 bắt đầu từ lớp 1. d) Đánh giá chung Kế hoạch thẩm định đang thực hiện đảm bảo đúng tiến độ và đúng quy định, dự kiến trong tháng 11/2019, Bộ GDĐT sẽ công bố kết quả thẩm định của các Hội đồng thẩm định SGK lớp 1 để các địa phương lựa chọn SGK theo đúng thẩm quyền. Kết quả thẩm định của các Hội đồng vừa qua cho thấy, nhiều bản mẫu SGK được các tác giả xây dựng công phu, cẩn thận, tâm huyết trên cơ sở tuân thủ định hướng đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông với trọng tâm là chuyển mục tiêu giáo dục từ chú trọng truyền thụ kiến thức sang giúp học sinh hình thành, phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực. Đặc biệt có nhiều tác giả tuổi cao, sức khỏe đã yếu nhưng với tinh thần chăm lo cho thế hệ trẻ, tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đã nghiên cứu và biên soạn các bản thảo SGK theo chương trình mới. Nhiều bản mẫu SGK có quan điểm biên soạn riêng, cấu trúc sách mới, hiện đại, tiếp cận với cách biên soạn sách của các nước tiên tiến trên thế giới nhưng vẫn bảo đảm phù hợp với điều kiện nhà trường và học sinh tiểu học Việt Nam; bảo đảm tính “mở”, linh hoạt, tạo điều kiện cho giáo viên phát huy tính chủ động, sáng tạo theo định hướng và qui định của Chương trình giáo dục phổ thông mới. Hội đồng thẩm định làm việc theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, khách quan và trung thực. Hội đồng đánh giá và xếp loại bản mẫu SGK theo nội dung từng khoản quy định tại Thông tư số 33. Bên cạnh những bản mẫu SGK được xếp loại “Đạt”, có những bản mẫu SGK được xếp loại “Không Đạt” do chưa đáp ứng được các quy định của Chương trình giáo dục phổ thông mới (theo Thông tư số 32) và các quy định tại Thông tư số 33. Đến thời điểm hiện tại Bộ GDĐT chưa nhận được bất kì phản ánh chính thức nào từ các đơn vị đề nghị thẩm định (Nhà xuất bản), từ các tác giả về kết quả đánh giá của Hội đồng thẩm định và qui trình làm việc của ban tổ chức thẩm định. Hầu hết đơn vị đề nghị thẩm định có bản mẫu SGK xếp loại “Không Đạt” đều có nguyện vọng và gửi đơn đề nghị về Bộ GDĐT để được tiếp tục chỉnh sửa, biên soạn lại để tiếp tục trình thẩm định, Bộ GDĐT đã ban hành kế hoạch và thông báo đến các NXB để tiếp tục tổ chức thẩm định lại trong tháng 11 năm 2019. Tuy nhiên bên cạnh những bản mẫu SGK được xếp loại “Đạt” cũng có những bản mẫu SGK được xếp loại “Không đạt” do chưa đáp ứng được các quy định của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT) và các quy định tại Thông tư số 33/2017/TT-BGDĐT trong đó có các bản mẫu sách giáo khoa môn Tiếng Việt 1 và Toán 1 do chúng tôi Hồ Ngọc Đại chủ biên thể hiện quan điểm, chính kiến riêng về xây dựng bộ sách, sách biên soạn không theo Chương trình giáo dục phổ thông mới và chưa theo các qui định tại Thông tư 33/2017 và có những phát biểu trên các phương tiện thông tin truyền thông (không có ý kiến chính thức với Bộ GDĐT) gây “xôn xao” trên một số phương tiện thông tin đại chúng, trên các trang mạng có những ý kiến phản biện, khiến dư luận xã hội phân tâm, ảnh hưởng ít nhiều đến việc thẩm định sách giáo khoa đang diễn ra và trong thời gian tới. Nội dung này Bộ GDĐT đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Công văn số 4475//BGDĐT-GDTH ngày 01 tháng 10 năm 2019 về tình hình thẩm định SGK lớp 1 trong đó nêu rõ lý do các bản thảo SGK môn Tiếng Việt 1, Toán 1 do chúng tôi Hồ Ngọc Đại chủ biên hội đồng đánh giá và xếp loại không đạt. 3) Hướng dẫn các địa phương lựa chọn SGK lớp 1 theo chương trình GDPT 2018. a) Thẩm quyền và qui trình lựa chọn SGK Theo Điểm c khoản 1 Điều 32 Luật Giáo dục 2019 quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc lựa chọn sách giáo khoa sử dụng ổn định trong cơ sở giáo dục phổ thông trên địa bàn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo”. Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Thông tư quy định việc lựa chọn sách giáo khoa trong cơ sở giáo dục phổ thông và đang thực hiện lấy ý kiến các địa phương và các nhà khoa học, dự kiến sẽ ban hành trong tháng 12 năm 2019 để các địa phương có đủ thời gian để thực hiện lựa chọn SGK theo thẩm quyền qui định. Việc tổ chức lựa chọn sách giáo khoa phải bảo đảm các nguyên tắc: Sách giáo khoa được lựa chọn phải bảo đảm các yêu cầu: Phù hợp với điều kiện địa lí, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương; Phù hợp với điều kiện tổ chức dạy và học; Chọn đủ sách giáo khoa cho các môn học, hoạt động giáo dục ở các khối lớp. Mỗi môn học, hoạt động giáo dục chọn ít nhất 01 (một) đầu sách giáo khoa; Ủy ban nhân dân tỉnh quy định cụ thể các tiêu chí lựa chọn sách giáo khoa.
Bộ GDĐT sẽ thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn các địa phương, các NXB thực hiện tốt các khâu lựa chọn SGK lớp 1, tổ chức tập huấn sử dụng SGK theo chương trình giáo dục phổ thông mới, thực hiện việc in và phát hành SGK đảm bảo đủ số lượng, kịp thời về tiến độ thời gian cho năm học 2020-2021. b) Tổ chức tập huấn sử dụng SGK, in ấn, phát hành SGK lớp 1 tại các địa phương – Sau khi các địa phương hoàn thành việc lựa chọn SGK lớp 1 (trước khai giảng năm học mới 06 tháng, tức tháng 3 năm 2020) các NXB có SGK lớp 1 được các địa phương lựa chọn tiến hành phối hợp tập huấn sử dụng SGK cho tất cả các giáo viên được phân công giảng dạy lớp 1 năm học 2020-2021, việc tổ chức tập huấn phải hoàn thành trước 30 tháng 6 năm 2020 (theo Công văn số 4960/BGDĐT-GDTH ngày 31/10/2019). – Việc in, phát hành sách SGK lớp 1 phải được tiến hành đảm bảo đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng in ấn, đặc biệt là kịp thời về tiến độ để các nhà trường, giáo viên và học sinh kịp thời trang bị cho năm học mới, việc in và phát hành SGK lớp 1 phải hoàn thành trước 30 tháng 7 năm 2020.
Những Điểm Mới Chương Trình Giáo Dục Phổ Thông Cấp Tiểu Học Và Giải Pháp Thực Hiện
Trong chương trình chương trình giáo dục phổ thông mới, mục tiêu giáo dục tiểu học “giúp học sinh hình thành và phát triển những yếu tố căn bản đặt nền móng cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt”.
Trong chương trình chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, mục tiêu của giáo dục tiểu học “giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”.
Như vậy, trong chương trình chương trình giáo dục phổ thông mới, mục tiêu giáo dục tiểu học không chỉ chú ý chuẩn bị cho học sinh những cơ sở ban đầu “cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở” mà còn chú ý yêu cầu “phát triển phẩm chất và năng lực; định hướng chính vào giáo dục về giá trị bản thân, gia đình, cộng đồng và những thói quen, nền nếp cần thiết trong học tập và sinh hoạt”.
II. Kế hoạch giáo dục 1. Các môn học 1.1. Các môn học và hoạt động giáo dục bắt buộc
Tiếng Việt; Toán; Đạo đức; Ngoại ngữ 1 (ở lớp 3, lớp 4, lớp 5); Tự nhiên và Xã hội (ở lớp 1, lớp 2, lớp 3); Lịch sử và Địa lí (ở lớp 4, lớp 5); Khoa học (ở lớp 4, lớp 5); Tin học và Công nghệ (ở lớp 3, lớp 4, lớp 5); Giáo dục thể chất; Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật); Hoạt động trải nghiệm.
1.2. Các môn học tự chọn
Tiếng dân tộc thiểu số, Ngoại ngữ 1 (ở lớp 1, lớp 2).
Giáo dục thể chất góp phần hình thành các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung cho học sinh; đồng thời, thông qua việc trang bị kiến thức về sức khoẻ, quản lí sức khỏe và rèn luyện, giáo dục thể chất giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực thể chất và văn hoá thể chất, ý thức trách nhiệm đối với sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng; biết lựa chọn môn thể thao phù hợp với năng lực vận động của bản thân để luyện tập; biết thích ứng với các điều kiện sống, lạc quan và chia sẻ với mọi người; có cuộc sống khoẻ mạnh về thể lực và tinh thần. Nội dung chủ yếu của môn Giáo dục thể chất là rèn luyện kĩ năng vận động và phát triển tố chất thể lực cho học sinh bằng những bài tập thể chất đa dạng như rèn kĩ năng vận động cơ bản, đội hình đội ngũ, các bài tập thể dục, các trò chơi vận động, các môn thể thao và phương pháp phòng tránh chấn thương trong hoạt động.
Nổi bật nhất lần đầu tiên ở tiểu học xuất hiện môn Hoạt động trải nghiệm. Hoạt động trải nghiệm ở tiểu học và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp ở trung học cơ sở và trung học phổ thông là các hoạt động giáo dục bắt buộc được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 12. Là hoạt động giáo dục do nhà giáo dục định hướng, thiết kế và hướng dẫn thực hiện, tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế, thể nghiệm các cảm xúc tích cực, khai thác những kinh nghiệm đã có và huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học khác nhau để thực hiện nhiệm vụ được giao hoặc giải quyết những vấn đề của thực tiễn đời sống nhà trường, gia đình, xã hội phù hợp với lứa tuổi; thông qua đó, chuyển hóa những kinh nghiệm đã trải qua thành tri thức mới, kĩ năng mới góp phần phát huy tiềm năng sáng tạo và khả năng thích ứng với cuộc sống, môi trường và nghề nghiệp tương lai.
Hoạt động trải nghiệm ở tiểu học và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp phát triển các phẩm chất chủ yếu, năng lực cốt lõi của học sinh trong các mối quan hệ với bản thân, xã hội, môi trường tự nhiên và nghề nghiệp được triển khai qua bốn mạch nội dung hoạt động chính: Hoạt động hướng vào bản thân, Hoạt động hướng đến xã hội, Hoạt động hướng đến tự nhiên và Hoạt động hướng nghiệp. Ở tiểu học, nội dung Hoạt động trải nghiệm tập trung vào các hoạt động khám phá bản thân, hoạt động rèn luyện, hoạt động phát triển quan hệ với bạn bè, thầy cô và người thân trong gia đình. Các hoạt động xã hội và tìm hiểu một số nghề gần gũi với học sinh cũng được tổ chức thực hiện với nội dung và hình thức phù hợp với lứa tuổi.
2. Thời lượng giáo dục
Thực hiện dạy học 2 buổi/ngày, mỗi ngày bố trí không quá 7 tiết học; mỗi tiết học từ 35 phút. Cơ sở giáo dục chưa đủ điều kiện tổ chức dạy học 2 buổi/ngày thực hiện kế hoạch giáo dục theo hướng dẫn của Bộ GDĐT.
BẢNG TỔNG HỢP KẾ HOẠCH GIÁO DỤC CẤP TIỂU HỌC
(Theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ GDĐT)
III. Giải pháp
Năm học 2018 – 2019 là năm học rất quan trọng để giáo dục tiểu học chuẩn bị mọi điều kiện tốt nhất cho việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới nhất là đối với lĩnh vực giáo dục tiểu học đạt hiệu quả, cần thực hiện các giải pháp sau:
1. Quan tâm và thực hiện tốt công tác truyền thông để giải thích, thuyết phục,… tạo sự đồng thuận toàn xã hội.
2. Đầu tư cơ sở vật chất theo lộ trình về trường, lớp, đồ dùng dạy học, trang thiết bị,… phù hợp để thực hiện được các yêu cầu mà chương trình đặt ra nhất là đảm bảo cho việc dạy học hai buổi trên ngày.
3. Bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên có đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
4. Tạo động lực đổi mới trong đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên.
5. Mỗi cán bộ quản lí, giáo viên phải tự bồi dưỡng và nhận thức được bản thân mình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thành công chương trình giáo dục phổ thông mới.
6. Tạo động cơ, phương pháp học tập đúng đắn trong học sinh, giúp học sinh nhận thức được mục tiêu học tập cụ thể, rõ ràng bằng cách giáo viên thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá,… để tạo được hứng thú, động lực học tập cho học sinh.
Đề Tài Vận Dụng Một Số Phương Pháp Dạy Học Tích Cực Nhằm Nâng Cao Hiệu Qủa Dạy Học Môn Giáo Dục Công Dân Bậc Trung Học Phổ Thông
Chúng ta đang sống ở thế kỷ XXI- thế kỷ chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nền kinh tế tri thức và xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra cơ sở mới cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, nâng cao đời sống con người. Để theo được sự phát triển của khoa học công nghệ và tốc độ phát triển nhanh của các nước trên thế giới thì sự nghiệp giáo dục cũng phải được đổi mới nhằm đào tạo những con người có năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ và chuyên môn cao, luôn năng động, sáng tạo, độc lập và tự chủ.
Hiện nay vấn đề giáo dục đang là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, chính giáo dục có vai trò rất lớn trong việc hình thành và phát triển con người – nhân tố quyết định cuả sự phát triển xã hội và góp phần thúc đẩy quá trình CNH- HĐH đất nước.
Ngày nay trước xu thế toàn cầu hoá, chất lượng giáo dục lại càng quan trọng và là điều kiện tiên quyết trong quá trình đấu tranh và hội nhập kinh tế giữa các nước trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia, dân tộc đều quan tâm đến giáo dục.
Nhận thức được việc đổi mới phương pháp dạy học là một trong những vấn đề bức thiết hiện nay ở nước ta, Đảng và Nhà nước cũng như Bộ GD & ĐT đã đưa ra nhiều nghị quyết, chỉ thị nhằm thúc đẩy việc đổi mới PPDH ở tất cả các cấp học, bậc học một cách mạnh mẽ và toàn diện.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỷ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội”
Chính vì thế, mục tiêu của nhà trư¬ờng phổ thông Việt Nam hiện nay là đào tạo con người mới, phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu, điều kiện và hoàn cảnh của đất nước cũng như¬ phù hợp với sự phát triển của thời đại. Mục tiêu của giáo dục phổ thông nư¬ớc ta đã được cụ thể hoá trong luật giáo dục năm 2005 nh¬ư sau:
“Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.[2]
óm chuyên môn. Bên cạnh đó, để thực hiện việc vận dụng PPDH tích cực trong giảng dạy môn GDCD yêu cầu phải có đủ phương tiện và thiết bị dạy học cần thiết để tạo thuận lợi cho việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực, phải tăng cường các phòng học có gắn phương tiện dạy học hiện đại. Xây dựng kế hoạch bổ sung thiết bị và tích cực sửa chữa cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phục vụ tốt cho nhu cầu hoạt động dạy và học. - Tăng cường hoạt động của tổ chuyên môn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy môn GDCD. Tổ bộ môn giữ vị trí quan trọng trong việc triển khai hoạt động đổi mới PPDH, là nơi trực tiếp triển khai các hoạt động của nhà trường trong đó trọng tâm là hoạt động giáo dục và dạy học. Tổ trưởng chuyên môn phải xây dựng kế hoạch chi tiết cụ thể về hoạt động chuyên môn của tổ, thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và theo dõi hoạt động chuyên môn của các thành viên trong tổ. Sắp xếp các nhóm chuyên môn một cách hợp lý, tổ chức sinh hoạt chuyên môn cho tổ, nhóm thiết thực có hiệu quả theo tinh thần đổi mới Tổ bộ môn phải có kế hoạch xây dựng và tổ chức thực hiện các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học. Để vận dụng các PPDH tích cực vào qúa trình dạy học đạt kết quả cao thì ngoài sự nổ lực của GV và HS thì sự quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn và tạo điều kiện của nhà trường và tổ bộ môn là rất cần thiết và quan trọng. * Giải pháp đối với Sở Giáo dục và Đào tạo Để nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD nói chung thì phụ thuộc nhiều những quyết định, chỉ thị về những hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực của Sở Giáo dục & Đào tạo. Sở Giáo dục & Đào tạo phải tiếp tục xây dựng được đội ngũ GV GDCD đúng chuyên ngành và tạo điều kiện cho họ học những bậc cao hơn để nâng cao trình độ. Tiếp tục tổ chức những phong trào thi GV dạy giỏi cấp tỉnh và tổ chức thêm kỳ thi học sinh giỏi tỉnh môn GDCD mỗi năm một lần để nhằm nâng cao tầm quan trọng của môn học, đồng thời tạo thêm sinh khí cho môn GDCD. Luôn chỉ đạo các trường THPT trong địa bàn quản lý việc tổ chức thường xuyên các chuyên đề về PPDH tích cực, cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và rèn luyện của HS, bồi dưỡng cho GV những kiến thức về chính trị, về kinh tế xã hội của địa phương, đường lối chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước. Sở Giáo dục & Đào tạo cần phải có đội ngũ GV cốt cán môn GDCD để thường xuyên phụ trách xây dựng chương trình, tài liệu và tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng vận dụng tốt các PPDH tích cực và thực hiện tốt cách kiểm tra đánh giá. Sở Giáo dục & Đào tạo nên đưa ra những yêu cầu, quy định cụ thể về các trường THPT và phối hợp với lãnh đạo lãnh đạo nhà trường để thực hiện cụ thể như việc kiểm tra soạn giáo án, thao giảng, dự giờ, cách ra đề kiểm tra, cách chấm điểm, cho điểm., và cần có chính sách khen thưởng, khích lệ, hổ trợ thỏa đáng khi GV thực hiện tốt công tác dạy học. Và chính sự chỉ đạo đó của Sở sẽ giúp cho việc dạy học đạt được kết quả cao hơn. * Giải pháp đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo Trên thực tế, trong thời gian qua Bộ giáo dục và đào tạo đã có sự đầu tư và đổi mới về nội dung chương trình GDCD, phương pháp dạy học cũng như cách kiểm tra đánh giá tuy nhiên trong quá trình giảng dạy thì với nội dung kiến thức triết học của chương lớp 10, phần công dân với kinh tế của chương trình 11, phần kiến thức pháp luật chương trình lớp 12 còn khái quát và chung chung chưa mang tính cụ thể, kiến thức còn nặng so với trình độ nhận thức của HS vì thế Bộ giáo dục và Đào tạo hạn chế những phần kiến thức còn khái quát và nên đưa thêm vào những kiến thức cụ thể hơn. Trên thực tế, ở hầu hết các trường THPT đều thiếu phương tiện, thiết bị và đồ dùng dạy học môn GDCD vì thế Bộ giáo dục và Đào tạo nên khẩn trương tạo điều kiện và cung cấp tranh ảnh, bảng biểu, sơ đồ cũng như tất cả những đồ dùng dạy học cần thiết để phục vụ bài giảng GDCD nhằm nâng cao được hiệu quả dạy học bộ môn. Việc lồng ghép nhiều nội dung vào chương trình môn GDCD sẽ tạo nhiều áp lực cho GV và HS bởi với thời lượng 45 phút GV truyền đạt cho HS những tri thức của môn học mà vẫn còn thấy thiếu thời gian vì bản thân kiến thức của môn GDCD vốn đã trừu tượng, khái quát nên khi dạy cần phải đưa những ví dụ và tình huống thực tế vào để các em hiểu dễ dàng hơn vì thế nếu lồng ghép các kiến thức khác qúa nhiều sẽ làm giảm đi hiệu quả của quá trình dạy học. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Những lợi ích trực tiếp khi áp dụng đề tài trong quá trình dạy học đó là giúp HS nắm vững được tri thức với các phương pháp lĩnh hội khác nhau. Phát triển tư duy sáng tạo, bồi dưỡng lòng ham học và khả năng tự học của HS. Rèn luyện năng lực thích ứng với cuộc sống hiện đại thông qua kỹ năng biết đặt và giải quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập và trong cuộc sống thực tế . GV kiểm tra, đánh giá năng lực của HS thông qua các hoạt động học tập như tiếp cận và xử lý tình huống , xây dựng kế hoạch giải quyết vấn đề. Tạo điều kiện để rèn luyện, bồi dưỡng những phẩm chất của tư duy như: Phê phán, sáng tạo, khả năng giao tiếp, quyết đoán, ra quyết định, tích cực hoá hoạt động của người học nhờ quá trình thường xuyên tiếp cận với các tình huống thực tế. Và đặc biệt là kết quả học tập của HS Trong quá trình dạy học theo hướng vận dụng các PPDH tích cực thì thực nghiệm sư phạm là một công đoạn không thể thiếu. Từ kết quả thực nghiệm sư phạm đã khẳng định việc vận dụng các PPDH tích cực có tính khả thi và hiệu quả. Kiến thức trở nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ và nhớ nhanh hơn do các em được làm việc chung. Nhờ không khí sôi nổi của lớp học khi có sự vận dụng các phương pháp dạy học tích cực sẽ giúp HS thoải mái, tự tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và biết lắng nghe ý kiến của những thành viên khác. Việc vận dụng các PPDH tích cực làm cho bài học sinh động hơn, khơi dậy lòng ham hiểu biết và sự tò mò, tính chủ động, sáng tạo ở mỗi HS trong quá trình học tập, giúp các em nâng cao được sự hiểu biết về kinh tế xã hội, về các quy luật cơ bản của nền kinh tế, các phạm trù đạo đức cũng như các phương hướng, đường lối, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà Nước để từ đó em hiểu về đất nước mình hơn, yêu đất nước hơn, có trách nhiệm đối với bản thân, với gia đình và xã hội. Công việc hoạt động nhóm, trả lời tình huống, đóng vai không phải bao giờ cũng mang lại kết quả như mong muốn, nếu tổ chức và thực hiện kém thì bải giảng sẽ không đạt được hiệu quả. - Số liệu thống kê, phân tích so sánh kết qủa đạt được so với trước khi thực hiện sang kiến kinh nghiệm này Giáo viên dạy cả 2 lớp, lớp đối chứng và lớp thực nghiệm. Lớp đối chứng dạy theo giáo án chỉ áp dụng phương pháp dạy học truyền thống, còn lớp thực nghiệm GV dạy cùng bài nhưng giáo án thiết kế theo hướng vận dụng một số PPDH tích cực. Tại trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh, Thành Phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Giáo viên tiến hành thực nghiệm lần 1: Tháng 9 / 2011, Bài 5 " Cách thức vận động, phát triển của sự vật hiện tượng " Dạy thực nghiệm tại lớp 10A4 và dạy đối chứng tại lớp 10A7 GV tiến hành thực nghiệm lần 2: Tháng 10/ 2011, bài 6 " Khuynh hướng phát triển của sự vật hiện tượng". GV dạy thực nghiệm lớp tại 10A9 và dạy đối chứng tại lớp 10A10. Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm và dạy đối chứng, tôi đã tổ chức điều tra, khảo sát nhận xét đánh giá của HS về giờ dạy và cho HS làm bài kiểm tra 15 phút sau khi GV dạy xong tiết học. Bảng1. Thống kê điểm kiểm tra 15 phút của HS lớp đối chứng và lớp thực nghiệm Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh ( 4 lớp - 179 HS ) Tên trường Lớp Số học sinh Điểm số <5 5 6 7 8 9 10 Nguyễn Hữu Cảnh ĐC 10A6 45 3 9 15 8 6 4 0 TN 10A4 44 0 5 7 12 10 9 2 ĐC 10A9 45 2 6 15 13 6 2 1 TN 10A8 45 0 2 5 20 8 8 2 Tổng ĐC 89 5 15 30 21 12 6 1 TN 90 0 7 12 32 18 17 4 Bảng 2. Kết quả học tập của HS lớp đối chứng và lớp thực nghiệm tại Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh ( 4 lớp - 179 HS ). Tính theo tỉ lệ % Tên trường Lớp Sĩ số Mức độ% Kém ( <5 ) Trung bình ( 5-6 ) Khá ( 7- 8 ) Giỏi ( 9- 10 ) Nguyễn Hữu Cảnh ĐC (10A6) 45 6.6 55.6 31.2 8.9 TN (10A4) 44 0 27.2 50.0 25.0 ĐC (10A9) 45 4.4 46.6 42.2 6.6 TN ( 10A8 ) 45 0 15.5 62.2 22.2 Tổng ĐC 89 5.6 50.5 37.0 7.8 TN 90 0 21.1 55.5 23.3 [ Nguồn: Điều tra vào tháng 10/ 2011] Từ kết quả học tập của HS ở lớp ĐC và lớp TN của Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh thì ta thấy rằng việc GV tiến hành quá trình dạy học cùng một nội dung kiến thức, cùng tình độ nhận thức của HS đương tương nhau nhưng khi GV vận dụng các PPDH tích cực vào bài giảng ở những lớp thực nghiệm thì HS hiểu bài, hứng thú với môn học hơn và đặc biệt là qua bảng số liệu đã thống kế điểm của bài kiểm tra nhận thức của HS thì kết quả học tập ở những lớp TN cao hơn so với lớp ĐC. Cụ thể như sau: - Ở 2 lớp TN: + Tỉ lệ HS đạt điểm giỏi ( từ 9- 10 điểm ) là 23, 3 % + Tỉ lệ HS đạt điểm khá ( từ 7 - 8 điểm ) là 55,5 % + Tỉ lệ HS đạt điểm trung bình ( từ 5- 6 điểm ) là 21, 1% + Tỉ lệ HS yếu, kém là 0% Vậy là chúng ta thấy ở những lớp thực nghiệm không có HS nào dưới điểm 5, tỉ lệ HS khá, giỏi tương đối cao. Ở 2 lớp đối chứng: + Tỉ lệ HS đạt điểm giỏi ( từ 9- 10 điểm ) là 7,8 % + Tỉ lệ HS đạt điểm khá ( từ 7 - 8 điểm ) là 37,0 % + Tỉ lệ HS đạt điểm trung bình ( từ 5- 6 điểm ) là 50,5 % + Tỉ lệ HS yếu, kém ( < 5 điểm ) là 5,6 % Như vậy, từ kết qủa học tập và kết qủa điều tra lấy ý kiến của HS sau tiết dạy ở cả 2 lớp TN và 2 lớp ĐC của trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh thì chúng ta thấy rằng việc GV vận dụng các PPDH tích cực vào giảng dạy môn GDCD là cần thiết và đúng đắn, phù hợp với xu hướng dạy học trong xã hội phát triển như hiện nay. Bảng 3. Tổng hợp kết qủa phiếu trưng cầu ý kiến HS của 2 lớp ĐC và 2 lớp TN tại trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh TT Nội dung câu hỏi và các phương án trả lời Tổng hợp ý kiến Lớp thực nghiệm ( 2 Lớp -90 HS ) Lớp đối chứng ( 2 Lớp - 89 HS ) Em có thích bài học hôm nay không ? a. Rất thích 53 7 b. Thích vừa phải 21 19 c. Bình thường 16 58 d. Không thích 0 6 2 Em có hiểu rõ nội dung bài học hôm nay không? a. Rất hiểu bài 60 3 b. Hiểu 17 11 c. Chưa hiểu lắm 13 76 d. Không hiểu 0 0 3 Em thấy thái độ của các bạn trong lớp đối với môn học này thế nào? a. Hăng say học tập và phát biểu 51 11 b. Có hứng thú 32 14 c. Học bình thường 7 63 d. Không quan tâm đến bài học 0 2 4 Em có thích môn GDCD không? a. Thích 57 6 b. Thích vừa phải 22 13 c. Bình thường 11 54 d. Không thích 0 17 5 Em có ý kiến gì về cách dạy của GV đối với giờ học này không? a. Luôn dạy như thế này 84 5 b. Giảng kỹ hơn 2 63 c. Đưa nhiều ví dụ thực tiễn hơn 4 15 d. Không có ý kiến gì? 0 7 [ Nguồn: Điều tra vào tháng 9/ 2011] Từ bảng điều tra trưng cầu ý kiến của HS, rút ra một số nhận xét như sau Nếu GV vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong dạy học thì HS sẽ thích thú và có tinh thần học bài hơn, tham gia phát biểu nhiều hơn, điều quan trọng là các em thấy hiểu bài hơn từ đó biết được giá trị của môn GDCD và thích thú hơn đối với môn học này. VI. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Từ kết quả sáng kiến kinh nghiệm, đưa ra một số kiến nghị sau: Thứ nhất: Cần xác định đúng vị trí, vai trò của môn GDCD ở trường THPT để tránh được nhận thức sai lầm cho rằng đây là môn học phụ, là môn mà GV nào cũng có thể dạy được, việc nhận thức sai lầm về vị trí, vai trò của môn GDCD dẫn đến những hạn chế nhất định trong thực tiễn dạy học bộ môn làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy học môn GDCD. Thứ hai: Bộ giáo dục và Đào tạo, các Sở giáo dục và đào tạo cần đưa môn GDCD vào những môn thi tốt nghiệpTHP, thi vào Đại học các chuyên ngành Giáo dục chính trị ở các trường Đại học để vai trò và vị trí của môn GDCD được nhìn nhận đúng với bản chất của nó, đồng thời tạo cho HS động lực, cách nhìn lẫn thái độ tích cực hơn đối với môn GDCD. Thứ tư: Hiện nay ở các trường THPT phương tiện và thiết bị dạy học còn quá nghèo nàn nên đã hạn chế rất lớn đến kết quả dạy và học của GV và HS. Bộ giáo dục nên sớm cung cấp thiết bị dạy học môn GDCD đầy đủ hơn nhằm tạo điều kiện cho GV và HS đạt hiệu quả cao trong việc dạy và học. VII. KẾT LUẬN Trong giai đoạn hiện nay, xã hội đang dần phát triển, mọi mặt của đời sống xã hội của Đất nước đang dần thay đổi theo hướng phát triển chung của thời đại vì thế việc đổi mới PPDH là một yêu cầu cấp thiết nhằm đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để những con người ở thế kỷ 21 năng động, sáng tạo, có phẩm chất tốt, năng lực cao đáp ứng cho sự nghiệp CNH- HĐH và phát triển Đất nước trong xu thế hội nhập. Vì lẽ đó nhu cầu học tập của người dân ngày càng cao, xã hội học tập đang hình thành và phát triển. Trong ngành giáo dục, mỗi GV cần phải năng động, sáng tạo, không ngừng tìm tòi để việc dạy học đạt hiệu quả cao. Ta đã biết, dạy học là một hoạt động đặc thù, một khoa học, một nghệ thuật trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Vì vậy người GV có trình độ, năng lực và giỏi tay nghề phải là người có kiến thức chuyên môn sâu rộng về môn học mà mình đảm nhận đồng thời phải có năng lực, năng khiếu sư phạm, lòng nhiệt tình và sự trải nghiệm trong cuộc sống. Biết vận dụng PPDH tích cực vào bài giảng một cách khoa học và hợp lý và mỗi phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện đại đều có những ưu điểm và nhược điểm của nó, do vậy GV nên xây dựng cho mình một PPDH riêng, phù hợp với mục tiêu, nội dung của bài học, phù hợp với đối tượng HS, điều kiện dạy học sẵn có, cơ sở vật chất của nhà trường và cuối cùng là phải phù hợp với sở thích của mình, có như vậy mới góp phần nâng cao hiệu quả học tập của HS. PHỤ LỤC PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN HỌC SINH ( TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN HỮU CẢNH) Em hãy vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau bằng cách khoanh tròn vào các đáp án sau: 1. Em có thích bài học hôm nay không? a . Rất thích b. Thích vừa phải c. Bình thường d. Không thích 2. Em có hiểu rõ nội dung bài học hôm nay không? a. Rất hiểu bài b. Hiểu c. Chưa hiểu lắm d. Không hiểu 3. Em thấy thái độ của các bạn trong lớp đối với môn học này thế nào? a. Hăng say học tập và phát biểu b. Có hứng thú c. Học bình thường d. Không quan tâm đến bài học 4. Em có thích môn GDCD không? a. Thích b. Thích vừa phải c. Bình thường d. Không thích 5. Em có ý kiến gì về cách dạy của GV đối với giờ học này không? a. Luôn dạy như thế này b. Giảng kỹ hơn c. Đưa nhiều ví dụ thực tiễn hơn d. Không có ý kiến gì V. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ giáo dục và Đào tạo, Tài liệu bồi dưỡng giáo viên môn Giáo dục công dân, Nxb Giáo dục, Hà nội, 2007. 2. Luật Giáo dục (2005). 3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc và Điều lệ Đảng cộng sản Việt nam lần thứ XI, Nxb Thời Đại, Hà Nội, 2011. 4. Bộ Giáo dục và đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp 11 THPT - NXB Giáo Dục. 5. Bộ Giáo dục và đào tạo Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn GDCD - NXB Giáo Dục Việt Nam, (2009) 6. Chỉ thị số 30/1998/CT- BGD& ĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục & đào tạo ngày 20/5/ 1998 Hà Nội. 7. Chỉ thị 15/1999/CT - BGD&ĐT ngày 20/4 /19999 8. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) 9. Lí luận dạy học Địa lý nhằm phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên sư phạm Địa Lý,Tạp chí Khoa học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng - TS. Đậu Thị Hòa, (2008) 10. Một vài suy nghĩ về đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông ở nước ta - Tạp chí nghiên cứu giáo dục số 276 tháng 5 - Trần Kiều, (1995) 11. Dạy và học môn GDCD ở Trường THPT, những vấn đề lý luận và thực tiễn Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên - Chủ biên NXB Đại học Sư Phạm, (2007) 12. Giáo dục học tập 2- Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt - NXB Giáo dục, ( 1998) 13. Giáo dục học trong trường sư phạm - Hà Thế Ngữ, Phạm Thị Diệu Vân - NXB Giáo dục Hà Nội, ( 1993) 14. Lý luận dạy học đại học- GS.Đặng Vũ Hoạt- PTS. Hà Thị Đức, ( 1994) 15. Giáo dục học đại cương II- GS. Đặng Vũ Hoạt- PGS. Nguyễn Sinh Huy- PGS. Hà Thị Đức Hà Nội, (1995) 16. Nghị quyết trung ương 2 Đại hội Đảng lần thứ VII 17. Chuyên đề 2: Các phương pháp dạy học tích cực - PGS- TS. Vũ Hồng Tiến 18 . PPDH phát huy tính tích cực - một phương pháp vô cùng quý báu, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục - số 271- Phạm Văn Đồng, (1994) 19. Bài tập GDCD 11- Vũ Đình Bảy (Chủ biên)- NXB Giáo Dục Việt Nam,(2010) 20. Phương pháp dạy học môn GDCD ở trường THPT - Vũ Đình Bảy - NXB Giáo Dục Việt Nam, (2010) 21. Phương pháp giáo dục tích cực- Nguyễn Kỳ - NXB Giáo Dục (1995) Người thực hiện Hà Thị Thanh HươngSỞ GD& ĐT ĐỒNG NAI CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Đơn vị:Trường THPT Nguyễn Hữu Cảnh Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc Biên Hòa, ngày 20 tháng 5 năm 2012 PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Năm học: 2011- 2012 Tên sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương dạy học tích cực nhằm nâng cao hiệu qủa dạy học môn Giáo dục công dân bậc trung học phổ thông Họ và tên tác giả: Hà Thị Thanh Hương Đơn vị (Tổ): Khoa học xã hội Lĩnh vực: Quản lý giáo dục * Phương pháp dạy học bộ môn..GDCD... * Phương pháp giáo dục * Lĩnh vực khác..........................................* Tính mới - Có giải pháp hoàn toàn mới * - Có giải pháp cải tiến, đổi mới từ giải pháp đã có * Hiệu quả: - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao * - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng trong toàn ngành có hiệu quả cao * - Hoàn toàn mới và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả cao * - Có tính cải tiến hoặc đổi mới từ những giải pháp đã có và đã triển khai áp dụng tại đơn vị có hiệu quả * Khả năng áp dụng: - Cung cấp được các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách: Tốt * Khá * Đạt * - Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào cuộc sống: Tốt * Khá * Đạt * - Đã được áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả hoặc có khả năng áp dụng đạt hiệu quả trong phạm vi rộng: Tốt * Khá * Đạt * XÁC NHẬN CỦA TỔ CHUYÊN MÔN THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊCập nhật thông tin chi tiết về Một Số Điểm Mới Trong Chương Trình Môn Giáo Dục Công Dân Ở Trung Học Phổ Thông Triển Khai Thời Gian Sắp Tới trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!