Bạn đang xem bài viết Một Số Biện Pháp Phát Huy Tính Tích Cực, Tự Giác Trong Học Tập Của Học Sinh Lớp 1 Trường Tiểu Học Quảng Kim : Phòng Gd&Đt Quảng Trạch được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Quảng KimMột số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Quảng Kim
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
– GV: Giáo viên
– HS: Học sinh
– PPDH: Phương pháp dạy học
– GD: Giáo dục
– GDTH: Giáo dục tiểu học
– DĐH: Đồ dùng dạy học
– GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Với từng nhịp đập của thời chúng tôi người, vạn vật không ngừng thay đổi và phát triển để tồn tại. Đặc biệt là con người, muốn vươn lên làm bá chủ vạn vật thì bản thân phải không ngừng học hỏi, tìm kiếm, tích lũy để phát triển. Cội nguồn của mọi sự phát triển đó chính là sự phát triển của Giáo dục(GD)
Giáo dục chính là nền tảng phát triển của con người, thậm chí là tương lai của một đất nước. Để có một nền tảng giáo dục tốt cần phải có những người thầy giỏi, tận tâm, tận lực với nghề để đưa những chuyến đò tri thức cập bến.
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh (HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để phát triển mọi mặt sau này.
Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản( nghe, nói, đọc, viết, và tính toán) của học sinh được hình thành ở Tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời con người. Học sinh Tiểu học được dạy từ những điều nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng sáng tạo. Như vậy Giáo dục Tiểu học là nền tảng cho sự hình thành và phát triển toàn diện của con người.Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị lâu dài, có tính quyết định. Vì thế làm tốt GDTH là đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước
Xác định được tầm quan trọng của GD như vậy thì GD nước nhà không thể dậm chân tại chổ theo lối dạy học truyền thụ một chiều,không phải dạy cho trẻ hiểu nhiều, biết rộng mà chỉ cho trẻ cách hành động, tự tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, đây mới là phương châm của nền GD mới.Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần biết sử dụng và kết hợp một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học, biết lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Song để đi đến thành công GD đòi hỏi mọi người phải không ngừng nổ lực phấn đấu, sáng tạo, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc của mình. Đây là một công việc vừa mang tính GD vừa mang tính nghệ thuật.. chúng tôi Men Xi đã viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Quảng Kim” để làm bài báo cáo thu hoạch của mình.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Để đất nước vươn mình, sánh vai với các cường quốc năm châu đòi hỏi đi đầu trong công cuộc đổi mới đó chính là GD. giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học tập của các em ở trường, chúng tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít. Chính vì vậy báo cáo này bước đầu đưa ra những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1.
III.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1.Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của quá trình phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh lớp1.
2.Tìm hiểu thực trạng học tập của học sinh lớp 1.
3.Đề xuất biện pháp và xây dựng kế hoạch nhằm phát huy tính tích cực , tự giác của học sinh tại trường.
ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp để phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh lớp 1 tại trường chúng tôi.
Khách thể nghiên cứu:
Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu 21 em học sinh lớp 1 tại trường chúng tôi.
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt… Để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh.
Phương pháp thực nghiệm:
Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Qua phương pháp này làm cho người giáo viên thấy được những thiếu sót và
những chỗ hổng của học sinh để có phương pháp làm cho hoạt động của mình đạt chất lượng cao.
Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề xuất.
Phương pháp đàm thoại:
Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh. Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.
Phương pháp thống kê, tính toán:
Phương pháp thống kê tính toán, qua những thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào?
Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa trong quá trình nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Thế nào là tích cực, tự giác?
Trong quá trình giáo dục học sinh với tư cách là đối tượng của hoạt động giáo dục, vừa là chủ thể của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện nhân cách của mình. Như vậy, vai trò chủ đạo của giáo viên, toàn bộ các tác động giáo dục của nhà trường sẻ không có hiệu quả, thực chất nếu không tạo ra được sự kết hợp hài hoà giữa hoạt động của thầy và hoạt động tích cực sáng tạo của trò. Từ trước đến nay, nhiều công trình nghiên cứu giáo dục cho thấy kết quả giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào sự hoạt động hưởng ứng tích cực, chủ động sáng tạo của từng học sinh cũng như hoạt động tích cực, độc lập của tập thể học sinh với tư cách vừa là đối tượng vừa là chủ thể của việc giáo dục.
Như vậy, tích cực, tự giác, độc lập có nghĩa là trong quá trình học tập, người học sinh tự đặt ra mục đích học tập, tích cực tìm ra các biện pháp tối ưu để vận dụng vào kết quả học tập, không chỉ thế, người học sinh phải luôn hứng thú, say mê học tập, xem việc học là một nhiệm vụ của mình phải hoàn thành. Do đó, khi áp dụng vào thực tế giáo dục đòi hỏi ở người giáo viên phải có trình độ sư phạm vững, hiểu sâu sắc đối tượng để chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, vốn kinh nghiệm của học sinh. Từ những yêu cầu chung, khơi gợi sự chú ý, sự quan tâm tìm cách cụ thể hoá, tự xác định các yêu cầu các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Về thái độ, người giáo viên nên có thái độ khoan dung, biết lắng nghe và tôn trọng, biết cách hổ trợ, giúp đỡ các em đúng lúc, đúng chổ nhưng không làm thay. Trong những tình huống nhất định, đối với đối tượng cá biệt cần có sự đối xữ thích hợp, có thể linh hoạt trong cách ứng xữ nhưng luôn có thái độ chân thành. Ngoài ra người giáo viên biết tạo ra dư luận đúng đắn, kịp thời hổ trợ, đề cao, khuyến khích cái hay, cái mới, cái tốt trong mọi hoạt động của học sinh, gây dựng lòng tin ở học sinh và bản thân. Trong môi trường giáo dục, cần có sự thông hiểu, lòng vị tha, sự quan tâm giữa các thành viên, trên cơ sở tình cảm đạo đức trong sáng, mang tính nhân đạo cao thượng. Đây là yếu tố tiềm ẩn nhưng có tác dụng cảm hoá, thuyết phục cao trong công tác giáo dục.
1.2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động hữu cơ: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thúc đúng đắn.Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, chứ không phải là người day, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau. Như vậy mục đích của dạy học ở đây là trẻ em phát triển trên nhiều mặt, chứ không chỉ nhằm lĩnh hội kiến thức. Do đó cần thật sự coi trọng việc hình thành, phát triển những kỷ năng tự học và có khả năng đáp ứng yêu cầu của dòng tri thức không ngừng gia tăng.
Chương trình và kế hoạch dạy học phải căn cứ vào nhu cầu, hứng thú, năng lực của học sinh, giúp các em có được thái độ đúng và nắm được những kiến thức, kỷ năng, kỷ xão, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình. Vì vậy trong khi dạy học cần tạo điều kiện cho học sinh chủ động tiếp thụ các kiến thức, kỷ năng…biết biến những cái đó thành kiến thức, kỷ năng của mình. Nói cách khác là biết điều cần học thành cái “ vốn ”, cái “ tài sản ” của bản thân. Học tập như vậy khiến sự hiểu biết của các em được vững chắc hơn, hứng thú của các em được tăng cường hơn. Khi dạy học hoạt động tư duy của các em được khơi dậy, phát triển và coi trọng. Đó chính là dạy học phát huy tính tích cực
1.3. Tác dụng của dạy học tích cực
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh có tác dụng rất lớn. Dạy học phát huy tính tích cực tạo điều kiện tối đa để phát huy vai trò chủ thể của người học. Trong dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh giữ vai trò chủ động hơn. Người học không là người tiếp nhận thông tin một cách bị động, không chủ yếu tiếp nhận thông tin từ giáo viên mà chủ động lĩnh hội thông tin, suy nghĩ, tìm tòi, khám phá các khía cạnh khác nhau của thông tin, sắp xếp lại thông tin. Người học hợp tác với các bạn cùng học để lĩnh hội thông tin, để giúp đỡ nhau trong học tập. Dạy học phát huy tính tích cực không chỉ giúp người học lĩnh hội nội dung kiến thức mà còn hình thành và phát triển những kỷ năng học tập của mình, hình thành và phát triển cách học. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh nâng cao hiệu quả
và chất lượng dạy học, đảm bảo tính toàn diện, cụ thể làm cho học sinh:
– Nắm vững, hiểu sâu và hiểu sâu kiến thức
– Luôn luôn củng cố và phát triển cách học của mình.
– Phát triển những phẩm chất đạo đức cá nhân như tính kiên trì, lòng nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm và ý thức tập thể
– Phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau.
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Đặc điểm chung của lớp 1B
Lớp 1B có 21 học sinh, trong đó có 10 em HS nữ, 11 em HS nam đều nằm trong độ tuổi sinh năm 2010
Sau 1 học kì, các cán bộ lớp luôn được thay đổi nhằm phát huy mọi năng lực chinh bản thân mỗi em. Bên cạnh đó sơ đồ vị trí lớp học luôn được thay đổi sau mỗi mỗi kì nhằm hạn chế các tật về mắt.
Các em học tập chăm chỉ, đạo đức tốt, sức khoẻ bình thường, ít em nghỉ học
* Thuận lợi: Đa số các em đều chăm ngoan, biết vâng lờ thầy cô, cha mẹ. Có ý thức học tập và lao động tốt, Biết giữ gìn vệ sinh cá nhâ, vệ sinh trường lớp sạch sẽ. Học sinh cùng độ tuổi sinh năm 2010 nên giáo viên thuận lợi trong việc quản lí và giáo dục học sinh. Đa số phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học của con em mình,các em được chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập đầy đủ khi đến lớp. Trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, các phòng học đều có điện quạt, phục vụ cho việc dạy và học, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.
* Khó khăn: Nhiều học sinh ở khá xa điểm trường, đường sá đi lại khó khăn, nhiều sông suối, rừng núi nên ảnh hưởng nhiều đến việc đến trường, đặc biệt là vào mùa mưa lũ, nhiều học sinh phải nghỉ học. Một số em gia đình có hoàn cảnh khó khăn,con thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, con đông, ăn uống còn thiếu thốn nên không đảm bảo sức khỏe cho việc học tập ngày 2 buổi.Các em học sinh ở lứa tuối nhỏ, còn hiếu động, ham chơi hơn ham học, chưa có ý thức đầy đủ về học tập nên giáo viên rất vất vả, thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn để sinh hoạt học tập đúng theo nội qui nhà trường, còn một số ít cha mẹ học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình nên việc truyền thụ kiến thức cho các em còn gặp khó khăn, trình độ học sinh không đồng đều.
2.2 Thực trạng của vấn đề
– Do vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của học sinh quá nghèo nàn. Học sinh không hiểu được yêu cầu của giáo viên trong giờ học. . – Do đồ dùng dạy học, sách giáo khoa còn thiếu nên ảnh hưởng tới sự tích cực của học sinh. . – Giáo viên chưa tạo điều kiện để học sinh tìm tòi tiếp nhận tri thức chưa để HS chú trọng trong học tập. – GV chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của HS. – GV chưa sử dụng phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm học sinh.
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
3.1. Biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp1:
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều. Trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm gồm:
– Năng lực khoa học
– Năng lực hiểu học sinh
– Năng lực ngôn ngữ
– Năng lực tổ chức
– Năng lực phân phối chú ý
– Năng lực trình bày bài giảng
– Óc tưởng tượng sư phạm
Ngoài ra giáo viên muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh trong học tập, cụ thể là:
Phương pháp thuyết minh. 9. Phương pháp trò chơi học tập.
Phương pháp đàm thoại. 10. Phương pháp quan sát.
Phương pháp hỏi đáp. 12. Phương pháp nêu vấn đề.
Phương pháp tìm tòi. 13. Phương pháp giải quyết vấn đề.
Phương pháp kể chuyện. 14. Phương pháp khảo sát điều tra.
Phương pháp động não. 15. Phương pháp thực hành luyện tập.
Phương pháp đóng vai. 16. Phương pháp lập luận đề án.
Dạy học cá nhân: Là chú ý phát triển năng lực riêng của từng học sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen tự học, tự làm việc, hình thức dạy học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với phiếu học tập, ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Làm bài tập trong sách, làm các trò chơi, tiến hành các thí nghiệm, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh, thu tập tài liệu, khảo sát thực tế nơi mình ở.
Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời học sinh biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được công tác tổ chức, điều khiển.
Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
– Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh một đề tài.
– Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
– Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
– Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.
– Xây dựng một phương án hay một kế hoạch.
Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến trong dạy học lấy GV làm trung tâm. Trong dạy học lấy HS làm trung tâm, để xuất hiện nhiều hình thức dạy học phù hợp với các PPDH đề cao vai trò hoạt động nhận thức của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều tác dụng tích cực, nhưng không diễn ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vào những lúc thích hợp của tiết học như vào đầu, giữa và cuối tiết học.
Dạy học ngoài trời: Có nhiều nội dung gần gũi, gắn với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Những bài học đó nếu có điều kiện nên tổ chức cho học sinh học ngoài trời những địa điểm thích hợp như vườn trường, sân trường hoặc những địa diểm gần trường. Vì việc học ngoài trời giúp học sinh có biểu tượng rõ nét, cụ thể về sự vật, hiện tượng nên nắm bài tốt hơn vì mắt thấy, tai nghe…Đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, phát triển tư duy cụ thể. Mặt khác, bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, thói quen hợp tác, học hỏi lẫn nhau.
Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài hiện trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn nuôi, nhà bảo tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông, hồ, thác nước…
Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh. Học sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được học trong lớp nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn. Liên hệ thực tế với bài học HS phát triển kĩ năng quan sát, so sánh, óc tò mò, trí tưởng tượng, bồi dưỡng hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.
Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được trong mọi lứa tuổi. Đặc biệt là những em ở lứa tuôi tiểu học nói riêng và học sinh lớp 1 nói chung. Trò chơi giúp các em phát triển. Bên cạnh đó sẽ thúc đẩy quá trình nhận thức của các em có hiệu quả. Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý những đặc tính: Vui – Khoẻ – An toàn – Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư giản…được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh, có hai đặc điểm cơ bản sau:
+ Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
+ Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.
Quan trọng hơn vẫn là sau mỗi trò chơi học sinh càng ham thích hoạt động, tự tin ở bản thân, mạnh dạn khẳng định bản thân.Bên cạnh đó, tinh thần đồng đội, đoàn kết, sự quan tâm giữa những thành viên trong lớp
Tóm lại: Đổi mới PPDH cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy học, mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập, tập trung vào các vấn đề sau:
– Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo và linh hoạt trong học tập.
– Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
– Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày kiến thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học sinh, nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề nghiên cứu.
– Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu quả to lớn trong việc dạy học. Việc dạy học trực quan không những làm cho quá trình học tập thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu hiện bề ngoài, kích thích ham hiểu biết của học sinh.
– Cải tiến công tác tự học: Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và tiếp thu kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng sự nghiên cứu của cơ sở lí luận dạy học của việc tổ chức công tác tự học của học sinh.
– Ngoài 4 nội dung trên, thái độ ngôn ngữ truyền đạt, tình cảm quan hệ giữa giáo viên (GV) và HS cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Do đó đòi hỏi người GV phải là người mẫu mực, là tấm gương, là thần tượng của các em.
3.2.Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Đối với việc học ở nhà:
– Cho học sinh lập thời gian biểu học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ thể gắn liền với thời gian cụ thể.
– Tổ chức họp phụ huynh từng kì để trao đổi vấn đề học tập của các em cho phụ huynh biết rõ đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết hợp với cha mẹ học sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
– Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá biệt, những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin thường xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
– Phát huy các phong trào học theo nhóm nhỏ (những em nhà ở gần nhau).
3.2.2. Đối với việc học ở lớp:
– Mượn thư viện của trường: Sách, đồ dùng học tập cho những học sinh còn thiếu.
– Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình thức giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
– Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị đồ dùng học tập của các em thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
– Có hình thức nhắc nhở, khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em lười học và không chú ý trong giờ học.
– Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với ba đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình để học sinh nắm bài được tốt.
– Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân…
– Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
3.2.3. Đối với môn toán:
– Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như: Trực quan, đàm thoại, thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các dồ dùng dạy học (ĐDDH). Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
– Tạo hứng thú cho các em bằng cách: Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân, giữa các tổ, nhóm… Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng, khuyến khích tinh thần cố gắn học tập để các em lần sau thêm tự tin.
* VD: Toán : Bài phép trừ trong phạm vi 4
Khi hướng dẫn hs thực hiện phép trừ trong phạm vi 4, để giúp hs dễ dàng hình dung ra thế nào là trừ( trừ là lấy đi, mất đi , cho đi) thì gv phải sử dụng hình ảnh trực quan: tranh ảnh hoặc thao tác trên vật thật để hs dễ dàng
hình dung.
Hình 1: Phép trừ trong phạm vi 4
Bài 1: Tính
4 – 1 = 4 – 2 = 3 + 1 = 1 + 2 =
3 – 1 = 3 – 2 = 4 – 3 = 3 – 1 =
2 – 1 = 4 – 3 = 4 – 1 = 3 – 2 =
Bài này GV có thể tổ chức cho HS hoạt động nhóm 4, mỗi nhóm thực hiện một cột, nhóm trưởng hướng dẫn các thành viên trong nhóm thực hiện
Hình 2 : Hoạt động nhóm
Cuối bài, để củng cố lại bảng trừ trong phạm vi 4, giáo viên có thể tổ chức cho HS tham gia trò chơi tiếp sức. Tổ chức thành 2 đội, mỗi đội 5 hoặc 4 HS. Sau khi GV ra hiệu lệnh từng thành viên các đội tuyền tay nhau tìm kết quả . Đội nào tìm nhanh, đúng được nhiều kết quả đội đó chiến thắng
Hình 3: Trò chơi học tập” Tiếp sức”
3.2.4. Đối với môn Tiếng việt:
– Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức độ hoàn thành từ 50% trở lên.
– Khi hướng dẫn HS học bài mới ở nhà, GV yêu cầu:
+ Đối với phân môn Tập đọc: Yêu cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Đối với phân môn Chính tả: Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết, tập chép bài đó vào vở ở nhà.
Đặc biệt phương pháp trực quan, hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi đông hơn. Từ đó tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực hành thì giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các em.Tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm, tổ… qua các trò chơi học tập…
* VD: Học âm /gi/ – Tiếng việt CGD lớp 1
Trong bài học vần này GV có thể sử dụng một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cho HS như sau:
Việc 0: Tiến hành bình thường
Việc 1: Trong phần tìm tiếng mới bằng cách cho HS thay thanh, thay phụ âm đầu trong mô hình:
GV có thể tổ chức trò chơi”Bắn tên” hoặc trò chơi” Xì điện” để HS tìm ra được nhiều tiếng mới vừa tạo không khí lớp học sôi nổi hơn, vừa rèn cho HS kĩ năng điều hành hoạt động học tập trong lớp
Hình thức trò chơi” Bắn tên” như sau:
Gọi 1 HS lên điều hành trò chơi, Khi HS này hô bắn tên, bắn tên cả lớp hô đồng thanh tên gì tên gì, khi đó người điều hành sẽ chỉ tên 1 bạn trong lớp, bạn đó sẽ phải đọc lên tiếng mới mà mình vừa tìm được. Ai không nêu được tiếng mới hoặc nêu sai là người thua cuộc.
Hình 4: Trò chơi” Bắn tên”
* DV: Dạy viết chữ /gi/: GV có thể sử dụng phương pháp trực quan, cho HS quan sát chữ gi in thường và gi viết thường trên tranh theo mẫu chữ viết của Bộ Giáo dục, yêu cầu HS nhận xét độ cao độ rộng chữ, so sánh chữ gi in thường và gi viết thường, chữ gi viết thường có nét giống con chữ nào đã học Sau đó GV viết mẫu, hướng dẫn HS cách viết
Như vậy cùng một lúc GV đã rèn cho HS hình thành các kĩ năng (nghe,nhìn, tổng hợp, so sánh) từ đó các em ghi nhớ lâu hơn, cụ thể hơn.
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp 1A tôi đang nghiên cứu nói riêng, với PPDH mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài trời, tham quan, trò chơi học tập..) đã làm cho HS học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo.Mặt khác còn kích thích được phong trào thi đua học tập trong lớp . Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng say phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng, DH theo hướng đổi mới sẽ huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng người GV không chỉ cung cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình.
* Kết quả khảo sát học kì I
Đánh giáđịnh kì Điểm 9- 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5
SL TL SL TL SL TL SL TL
Tiếng việt 13 62% 7 33% 1 5%
Toán 17 81% 4 19%
Đánh giáthường xuyên Hoàn thành tốt(T) Hoàn thành(H) Chưa hoàn thành(C)
SL TL SL TL SL TL
Tiếng việt 13 62% 8 38%
Toán 17 81% 4 19%
Đạo đức 15 71% 6 29%
Âm nhạc 10 48% 11 52%
Mĩ thuật 9 42% 12 58%
Thủ công 12 58% 9 42%
Thể dục 14 67% 7 33%
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Qua những lần đi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình HS và đặc biệt là những giờ thực tập giảng dạy. Bản thân tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích.
Dạy học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước. Đòi hỏi người GV phải nổ lực, sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Về công tác giảng dạy:
Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống câu hỏi:
– Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
– Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
– Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
– Sử dụng tốt các câu chuyển ý, chuyển đoạn, tạo ra sự liên kết chặt chẽ, lôgic
của bài dạy.
– Sử dụng tối đa ĐDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng môn học.
– GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.
– GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã hội.
Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về mọi công việc như: ĐDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng. Đồng thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá, giỏi.
Về công tác chủ nhiệm:
GV chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng, GV chủ nhiệm thường là người dạy chủ yếu của lớp, đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra đánh giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ trách, nhằm hình thành nhân cách của HS. Với vai trò, vị trí như vậy GV chủ nhiệm còn là cầu nối liền giữa nhà trường với đời sống xã hội.
Để trở thành người GVCN giỏi thì ngoài những công việc trên, người GV phải rèn cho mình những năng lực sau:
– Phải quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh.
– Phải xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
– Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy,nề nếp của trường, lớp.
– Xây dựng và phát triển quan hệ, kết hợp với lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm mục tiêu giáo dục học sinh.
Thông thường trẻ ở Tiểu học tin tưởng tuyệt đối vào GV, đặc biệt là GVCN. Do đó phẩm chất và năng lực của GVCN là nhân tố hết sức quan trọng đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung.
KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
– Cung cấp kịp thời việc đổi mới phương pháp hoạt động.
– Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác dạy học.
2.Đối với nhà trường:
– Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.
– Có thêm nhiều sách tham khảo.
– Trường phải có biện pháp cứng rắn đối với những HS thường xuyên nghỉ học hay bỏ học.
Đối với địa phương, gia đình:
– Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều hơn.
– Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con em.
– Cần mua sắm sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Phạm Minh Hạc (1996), Tâm lí học, NXB. Giáo dục
Nguyễn Đức Hoành (2006), Chuyên đề : Một số Phương pháp và Hình thức tổ chức dạy học
Nguyển Sinh Huy (1997), Giáo dục học, NXB.Giáo dục
Luật giáo dục (NXB Chính trị Quốc Gia-1998)
5. Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Bộ GDSX năm 2005)
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT. 1
III.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 3
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.. 6
1.1 Thế nào là tích cực, tự giác?. 6
1.2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. 7
1.3. Tác dụng của dạy học tích cực. 7
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.. 9
2.1. Đặc điểm chung của lớp 1B.. 9
2.2 Thực trạng của vấn đề. 9
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH.. 11
3.1. Biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp1: 11
3.2.Tổ chức thực hiện: 15
3.2.1. Đối với việc học ở nhà: 15
3.2.2. Đối với việc học ở lớp: 15
3.2.3. Đối với môn toán: 16
3.2.4. Đối với môn Tiếng việt: 18
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN.. 21
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 25
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
– GV: Giáo viên
– HS: Học sinh
– PPDH: Phương pháp dạy học
– GD: Giáo dục
– GDTH: Giáo dục tiểu học
– DĐH: Đồ dùng dạy học
– GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Với từng nhịp đập của thời chúng tôi người, vạn vật không ngừng thay đổi và phát triển để tồn tại. Đặc biệt là con người, muốn vươn lên làm bá chủ vạn vật thì bản thân phải không ngừng học hỏi, tìm kiếm, tích lũy để phát triển. Cội nguồn của mọi sự phát triển đó chính là sự phát triển của Giáo dục(GD)
Giáo dục chính là nền tảng phát triển của con người, thậm chí là tương lai của một đất nước. Để có một nền tảng giáo dục tốt cần phải có những người thầy giỏi, tận tâm, tận lực với nghề để đưa những chuyến đò tri thức cập bến.
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh (HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để phát triển mọi mặt sau này.
Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản( nghe, nói, đọc, viết, và tính toán) của học sinh được hình thành ở Tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời con người. Học sinh Tiểu học được dạy từ những điều nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng sáng tạo. Như vậy Giáo dục Tiểu học là nền tảng cho sự hình thành và phát triển toàn diện của con người.Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị lâu dài, có tính quyết định. Vì thế làm tốt GDTH là đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước
Xác định được tầm quan trọng của GD như vậy thì GD nước nhà không thể dậm chân tại chổ theo lối dạy học truyền thụ một chiều,không phải dạy cho trẻ hiểu nhiều, biết rộng mà chỉ cho trẻ cách hành động, tự tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, đây mới là phương châm của nền GD mới.Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần biết sử dụng và kết hợp một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học, biết lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Song để đi đến thành công GD đòi hỏi mọi người phải không ngừng nổ lực phấn đấu, sáng tạo, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc của mình. Đây là một công việc vừa mang tính GD vừa mang tính nghệ thuật.. chúng tôi Men Xi đã viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Quảng Kim” để làm bài báo cáo thu hoạch của mình.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Để đất nước vươn mình, sánh vai với các cường quốc năm châu đòi hỏi đi đầu trong công cuộc đổi mới đó chính là GD. giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học tập của các em ở trường, chúng tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít. Chính vì vậy báo cáo này bước đầu đưa ra những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1.
III.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1.Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của quá trình phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh lớp1.
2.Tìm hiểu thực trạng học tập của học sinh lớp 1.
3.Đề xuất biện pháp và xây dựng kế hoạch nhằm phát huy tính tích cực , tự giác của học sinh tại trường.
ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp để phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh lớp 1 tại trường chúng tôi.
Khách thể nghiên cứu:
Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu 21 em học sinh lớp 1 tại trường chúng tôi.
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt… Để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh.
Phương pháp thực nghiệm:
Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Qua phương pháp này làm cho người giáo viên thấy được những thiếu sót và
những chỗ hổng của học sinh để có phương pháp làm cho hoạt động của mình đạt chất lượng cao.
Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề xuất.
Phương pháp đàm thoại:
Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh. Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.
Phương pháp thống kê, tính toán:
Phương pháp thống kê tính toán, qua những thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào?
Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa trong quá trình nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Thế nào là tích cực, tự giác?
Trong quá trình giáo dục học sinh với tư cách là đối tượng của hoạt động giáo dục, vừa là chủ thể của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện nhân cách của mình. Như vậy, vai trò chủ đạo của giáo viên, toàn bộ các tác động giáo dục của nhà trường sẻ không có hiệu quả, thực chất nếu không tạo ra được sự kết hợp hài hoà giữa hoạt động của thầy và hoạt động tích cực sáng tạo của trò. Từ trước đến nay, nhiều công trình nghiên cứu giáo dục cho thấy kết quả giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào sự hoạt động hưởng ứng tích cực, chủ động sáng tạo của từng học sinh cũng như hoạt động tích cực, độc lập của tập thể học sinh với tư cách vừa là đối tượng vừa là chủ thể của việc giáo dục.
Như vậy, tích cực, tự giác, độc lập có nghĩa là trong quá trình học tập, người học sinh tự đặt ra mục đích học tập, tích cực tìm ra các biện pháp tối ưu để vận dụng vào kết quả học tập, không chỉ thế, người học sinh phải luôn hứng thú, say mê học tập, xem việc học là một nhiệm vụ của mình phải hoàn thành. Do đó, khi áp dụng vào thực tế giáo dục đòi hỏi ở người giáo viên phải có trình độ sư phạm vững, hiểu sâu sắc đối tượng để chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, vốn kinh nghiệm của học sinh. Từ những yêu cầu chung, khơi gợi sự chú ý, sự quan tâm tìm cách cụ thể hoá, tự xác định các yêu cầu các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Về thái độ, người giáo viên nên có thái độ khoan dung, biết lắng nghe và tôn trọng, biết cách hổ trợ, giúp đỡ các em đúng lúc, đúng chổ nhưng không làm thay. Trong những tình huống nhất định, đối với đối tượng cá biệt cần có sự đối xữ thích hợp, có thể linh hoạt trong cách ứng xữ nhưng luôn có thái độ chân thành. Ngoài ra người giáo viên biết tạo ra dư luận đúng đắn, kịp thời hổ trợ, đề cao, khuyến khích cái hay, cái mới, cái tốt trong mọi hoạt động của học sinh, gây dựng lòng tin ở học sinh và bản thân. Trong môi trường giáo dục, cần có sự thông hiểu, lòng vị tha, sự quan tâm giữa các thành viên, trên cơ sở tình cảm đạo đức trong sáng, mang tính nhân đạo cao thượng. Đây là yếu tố tiềm ẩn nhưng có tác dụng cảm hoá, thuyết phục cao trong công tác giáo dục.
1.2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động hữu cơ: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thúc đúng đắn.Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, chứ không phải là người day, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau. Như vậy mục đích của dạy học ở đây là trẻ em phát triển trên nhiều mặt, chứ không chỉ nhằm lĩnh hội kiến thức. Do đó cần thật sự coi trọng việc hình thành, phát triển những kỷ năng tự học và có khả năng đáp ứng yêu cầu của dòng tri thức không ngừng gia tăng.
Chương trình và kế hoạch dạy học phải căn cứ vào nhu cầu, hứng thú, năng lực của học sinh, giúp các em có được thái độ đúng và nắm được những kiến thức, kỷ năng, kỷ xão, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình. Vì vậy trong khi dạy học cần tạo điều kiện cho học sinh chủ động tiếp thụ các kiến thức, kỷ năng…biết biến những cái đó thành kiến thức, kỷ năng của mình. Nói cách khác là biết điều cần học thành cái “ vốn ”, cái “ tài sản ” của bản thân. Học tập như vậy khiến sự hiểu biết của các em được vững chắc hơn, hứng thú của các em được tăng cường hơn. Khi dạy học hoạt động tư duy của các em được khơi dậy, phát triển và coi trọng. Đó chính là dạy học phát huy tính tích cực
1.3. Tác dụng của dạy học tích cực
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh có tác dụng rất lớn. Dạy học phát huy tính tích cực tạo điều kiện tối đa để phát huy vai trò chủ thể của người học. Trong dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh giữ vai trò chủ động hơn. Người học không là người tiếp nhận thông tin một cách bị động, không chủ yếu tiếp nhận thông tin từ giáo viên mà chủ động lĩnh hội thông tin, suy nghĩ, tìm tòi, khám phá các khía cạnh khác nhau của thông tin, sắp xếp lại thông tin. Người học hợp tác với các bạn cùng học để lĩnh hội thông tin, để giúp đỡ nhau trong học tập. Dạy học phát huy tính tích cực không chỉ giúp người học lĩnh hội nội dung kiến thức mà còn hình thành và phát triển những kỷ năng học tập của mình, hình thành và phát triển cách học. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh nâng cao hiệu quả
và chất lượng dạy học, đảm bảo tính toàn diện, cụ thể làm cho học sinh:
– Nắm vững, hiểu sâu và hiểu sâu kiến thức
– Luôn luôn củng cố và phát triển cách học của mình.
– Phát triển những phẩm chất đạo đức cá nhân như tính kiên trì, lòng nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm và ý thức tập thể
– Phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau.
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Đặc điểm chung của lớp 1B
Lớp 1B có 21 học sinh, trong đó có 10 em HS nữ, 11 em HS nam đều nằm trong độ tuổi sinh năm 2010
Sau 1 học kì, các cán bộ lớp luôn được thay đổi nhằm phát huy mọi năng lực chinh bản thân mỗi em. Bên cạnh đó sơ đồ vị trí lớp học luôn được thay đổi sau mỗi mỗi kì nhằm hạn chế các tật về mắt.
Các em học tập chăm chỉ, đạo đức tốt, sức khoẻ bình thường, ít em nghỉ học
* Thuận lợi: Đa số các em đều chăm ngoan, biết vâng lờ thầy cô, cha mẹ. Có ý thức học tập và lao động tốt, Biết giữ gìn vệ sinh cá nhâ, vệ sinh trường lớp sạch sẽ. Học sinh cùng độ tuổi sinh năm 2010 nên giáo viên thuận lợi trong việc quản lí và giáo dục học sinh. Đa số phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học của con em mình,các em được chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập đầy đủ khi đến lớp. Trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, các phòng học đều có điện quạt, phục vụ cho việc dạy và học, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.
* Khó khăn: Nhiều học sinh ở khá xa điểm trường, đường sá đi lại khó khăn, nhiều sông suối, rừng núi nên ảnh hưởng nhiều đến việc đến trường, đặc biệt là vào mùa mưa lũ, nhiều học sinh phải nghỉ học. Một số em gia đình có hoàn cảnh khó khăn,con thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, con đông, ăn uống còn thiếu thốn nên không đảm bảo sức khỏe cho việc học tập ngày 2 buổi.Các em học sinh ở lứa tuối nhỏ, còn hiếu động, ham chơi hơn ham học, chưa có ý thức đầy đủ về học tập nên giáo viên rất vất vả, thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn để sinh hoạt học tập đúng theo nội qui nhà trường, còn một số ít cha mẹ học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình nên việc truyền thụ kiến thức cho các em còn gặp khó khăn, trình độ học sinh không đồng đều.
2.2 Thực trạng của vấn đề
– Do vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của học sinh quá nghèo nàn. Học sinh không hiểu được yêu cầu của giáo viên trong giờ học. . – Do đồ dùng dạy học, sách giáo khoa còn thiếu nên ảnh hưởng tới sự tích cực của học sinh. . – Giáo viên chưa tạo điều kiện để học sinh tìm tòi tiếp nhận tri thức chưa để HS chú trọng trong học tập. – GV chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của HS. – GV chưa sử dụng phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm học sinh.
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
3.1. Biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp1:
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều. Trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm gồm:
– Năng lực khoa học
– Năng lực hiểu học sinh
– Năng lực ngôn ngữ
– Năng lực tổ chức
– Năng lực phân phối chú ý
– Năng lực trình bày bài giảng
– Óc tưởng tượng sư phạm
Ngoài ra giáo viên muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh trong học tập, cụ thể là:
Phương pháp thuyết minh. 9. Phương pháp trò chơi học tập.
Phương pháp đàm thoại. 10. Phương pháp quan sát.
Phương pháp hỏi đáp. 12. Phương pháp nêu vấn đề.
Phương pháp tìm tòi. 13. Phương pháp giải quyết vấn đề.
Phương pháp kể chuyện. 14. Phương pháp khảo sát điều tra.
Phương pháp động não. 15. Phương pháp thực hành luyện tập.
Phương pháp đóng vai. 16. Phương pháp lập luận đề án.
Dạy học cá nhân: Là chú ý phát triển năng lực riêng của từng học sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen tự học, tự làm việc, hình thức dạy học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với phiếu học tập, ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Làm bài tập trong sách, làm các trò chơi, tiến hành các thí nghiệm, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh, thu tập tài liệu, khảo sát thực tế nơi mình ở.
Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời học sinh biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được công tác tổ chức, điều khiển.
Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
– Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh một đề tài.
– Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
– Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
– Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.
– Xây dựng một phương án hay một kế hoạch.
Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến trong dạy học lấy GV làm trung tâm. Trong dạy học lấy HS làm trung tâm, để xuất hiện nhiều hình thức dạy học phù hợp với các PPDH đề cao vai trò hoạt động nhận thức của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều tác dụng tích cực, nhưng không diễn ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vào những lúc thích hợp của tiết học như vào đầu, giữa và cuối tiết học.
Dạy học ngoài trời: Có nhiều nội dung gần gũi, gắn với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Những bài học đó nếu có điều kiện nên tổ chức cho học sinh học ngoài trời những địa điểm thích hợp như vườn trường, sân trường hoặc những địa diểm gần trường. Vì việc học ngoài trời giúp học sinh có biểu tượng rõ nét, cụ thể về sự vật, hiện tượng nên nắm bài tốt hơn vì mắt thấy, tai nghe…Đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, phát triển tư duy cụ thể. Mặt khác, bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, thói quen hợp tác, học hỏi lẫn nhau.
Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài hiện trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn nuôi, nhà bảo tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông, hồ, thác nước…
Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh. Học sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được học trong lớp nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn. Liên hệ thực tế với bài học HS phát triển kĩ năng quan sát, so sánh, óc tò mò, trí tưởng tượng, bồi dưỡng hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.
Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được trong mọi lứa tuổi. Đặc biệt là những em ở lứa tuôi tiểu học nói riêng và học sinh lớp 1 nói chung. Trò chơi giúp các em phát triển. Bên cạnh đó sẽ thúc đẩy quá trình nhận thức của các em có hiệu quả. Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý những đặc tính: Vui – Khoẻ – An toàn – Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư giản…được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh, có hai đặc điểm cơ bản sau:
+ Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
+ Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.
Quan trọng hơn vẫn là sau mỗi trò chơi học sinh càng ham thích hoạt động, tự tin ở bản thân, mạnh dạn khẳng định bản thân.Bên cạnh đó, tinh thần đồng đội, đoàn kết, sự quan tâm giữa những thành viên trong lớp
Tóm lại: Đổi mới PPDH cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy học, mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập, tập trung vào các vấn đề sau:
– Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo và linh hoạt trong học tập.
– Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
– Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày kiến thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học sinh, nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề nghiên cứu.
– Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu quả to lớn trong việc dạy học. Việc dạy học trực quan không những làm cho quá trình học tập thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu hiện bề ngoài, kích thích ham hiểu biết của học sinh.
– Cải tiến công tác tự học: Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và tiếp thu kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng sự nghiên cứu của cơ sở lí luận dạy học của việc tổ chức công tác tự học của học sinh.
– Ngoài 4 nội dung trên, thái độ ngôn ngữ truyền đạt, tình cảm quan hệ giữa giáo viên (GV) và HS cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Do đó đòi hỏi người GV phải là người mẫu mực, là tấm gương, là thần tượng của các em.
3.2.Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Đối với việc học ở nhà:
– Cho học sinh lập thời gian biểu học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ thể gắn liền với thời gian cụ thể.
– Tổ chức họp phụ huynh từng kì để trao đổi vấn đề học tập của các em cho phụ huynh biết rõ đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết hợp với cha mẹ học sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
– Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá biệt, những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin thường xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
– Phát huy các phong trào học theo nhóm nhỏ (những em nhà ở gần nhau).
3.2.2. Đối với việc học ở lớp:
– Mượn thư viện của trường: Sách, đồ dùng học tập cho những học sinh còn thiếu.
– Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình thức giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
– Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị đồ dùng học tập của các em thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
– Có hình thức nhắc nhở, khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em lười học và không chú ý trong giờ học.
– Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với ba đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình để học sinh nắm bài được tốt.
– Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân…
– Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
3.2.3. Đối với môn toán:
– Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như: Trực quan, đàm thoại, thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các dồ dùng dạy học (ĐDDH). Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
– Tạo hứng thú cho các em bằng cách: Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân, giữa các tổ, nhóm… Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng, khuyến khích tinh thần cố gắn học tập để các em lần sau thêm tự tin.
* VD: Toán : Bài phép trừ trong phạm vi 4
Khi hướng dẫn hs thực hiện phép trừ trong phạm vi 4, để giúp hs dễ dàng hình dung ra thế nào là trừ( trừ là lấy đi, mất đi , cho đi) thì gv phải sử dụng hình ảnh trực quan: tranh ảnh hoặc thao tác trên vật thật để hs dễ dàng
hình dung.
Hình 1: Phép trừ trong phạm vi 4
Bài 1: Tính
4 – 1 = 4 – 2 = 3 + 1 = 1 + 2 =
3 – 1 = 3 – 2 = 4 – 3 = 3 – 1 =
2 – 1 = 4 – 3 = 4 – 1 = 3 – 2 =
Bài này GV có thể tổ chức cho HS hoạt động nhóm 4, mỗi nhóm thực hiện một cột, nhóm trưởng hướng dẫn các thành viên trong nhóm thực hiện
Hình 2 : Hoạt động nhóm
Cuối bài, để củng cố lại bảng trừ trong phạm vi 4, giáo viên có thể tổ chức cho HS tham gia trò chơi tiếp sức. Tổ chức thành 2 đội, mỗi đội 5 hoặc 4 HS. Sau khi GV ra hiệu lệnh từng thành viên các đội tuyền tay nhau tìm kết quả . Đội nào tìm nhanh, đúng được nhiều kết quả đội đó chiến thắng
Hình 3: Trò chơi học tập” Tiếp sức”
3.2.4. Đối với môn Tiếng việt:
– Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức độ hoàn thành từ 50% trở lên.
– Khi hướng dẫn HS học bài mới ở nhà, GV yêu cầu:
+ Đối với phân môn Tập đọc: Yêu cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Đối với phân môn Chính tả: Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết, tập chép bài đó vào vở ở nhà.
Đặc biệt phương pháp trực quan, hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi đông hơn. Từ đó tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực hành thì giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các em.Tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm, tổ… qua các trò chơi học tập…
* VD: Học âm /gi/ – Tiếng việt CGD lớp 1
Trong bài học vần này GV có thể sử dụng một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cho HS như sau:
Việc 0: Tiến hành bình thường
Việc 1: Trong phần tìm tiếng mới bằng cách cho HS thay thanh, thay phụ âm đầu trong mô hình:
GV có thể tổ chức trò chơi”Bắn tên” hoặc trò chơi” Xì điện” để HS tìm ra được nhiều tiếng mới vừa tạo không khí lớp học sôi nổi hơn, vừa rèn cho HS kĩ năng điều hành hoạt động học tập trong lớp
Hình thức trò chơi” Bắn tên” như sau:
Gọi 1 HS lên điều hành trò chơi, Khi HS này hô bắn tên, bắn tên cả lớp hô đồng thanh tên gì tên gì, khi đó người điều hành sẽ chỉ tên 1 bạn trong lớp, bạn đó sẽ phải đọc lên tiếng mới mà mình vừa tìm được. Ai không nêu được tiếng mới hoặc nêu sai là người thua cuộc.
Hình 4: Trò chơi” Bắn tên”
* DV: Dạy viết chữ /gi/: GV có thể sử dụng phương pháp trực quan, cho HS quan sát chữ gi in thường và gi viết thường trên tranh theo mẫu chữ viết của Bộ Giáo dục, yêu cầu HS nhận xét độ cao độ rộng chữ, so sánh chữ gi in thường và gi viết thường, chữ gi viết thường có nét giống con chữ nào đã học Sau đó GV viết mẫu, hướng dẫn HS cách viết
Như vậy cùng một lúc GV đã rèn cho HS hình thành các kĩ năng (nghe,nhìn, tổng hợp, so sánh) từ đó các em ghi nhớ lâu hơn, cụ thể hơn.
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp 1A tôi đang nghiên cứu nói riêng, với PPDH mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài trời, tham quan, trò chơi học tập..) đã làm cho HS học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo.Mặt khác còn kích thích được phong trào thi đua học tập trong lớp . Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng say phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng, DH theo hướng đổi mới sẽ huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng người GV không chỉ cung cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình.
* Kết quả khảo sát học kì I
Đánh giáđịnh kì Điểm 9- 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5
SL TL SL TL SL TL SL TL
Tiếng việt 13 62% 7 33% 1 5%
Toán 17 81% 4 19%
Đánh giáthường xuyên Hoàn thành tốt(T) Hoàn thành(H) Chưa hoàn thành(C)
SL TL SL TL SL TL
Tiếng việt 13 62% 8 38%
Toán 17 81% 4 19%
Đạo đức 15 71% 6 29%
Âm nhạc 10 48% 11 52%
Mĩ thuật 9 42% 12 58%
Thủ công 12 58% 9 42%
Thể dục 14 67% 7 33%
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Qua những lần đi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình HS và đặc biệt là những giờ thực tập giảng dạy. Bản thân tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích.
Dạy học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước. Đòi hỏi người GV phải nổ lực, sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Về công tác giảng dạy:
Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống câu hỏi:
– Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
– Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
– Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
– Sử dụng tốt các câu chuyển ý, chuyển đoạn, tạo ra sự liên kết chặt chẽ, lôgic
của bài dạy.
– Sử dụng tối đa ĐDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng môn học.
– GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.
– GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã hội.
Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về mọi công việc như: ĐDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng. Đồng thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá, giỏi.
Về công tác chủ nhiệm:
GV chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng, GV chủ nhiệm thường là người dạy chủ yếu của lớp, đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra đánh giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ trách, nhằm hình thành nhân cách của HS. Với vai trò, vị trí như vậy GV chủ nhiệm còn là cầu nối liền giữa nhà trường với đời sống xã hội.
Để trở thành người GVCN giỏi thì ngoài những công việc trên, người GV phải rèn cho mình những năng lực sau:
– Phải quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh.
– Phải xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
– Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy,nề nếp của trường, lớp.
– Xây dựng và phát triển quan hệ, kết hợp với lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm mục tiêu giáo dục học sinh.
Thông thường trẻ ở Tiểu học tin tưởng tuyệt đối vào GV, đặc biệt là GVCN. Do đó phẩm chất và năng lực của GVCN là nhân tố hết sức quan trọng đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung.
KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
– Cung cấp kịp thời việc đổi mới phương pháp hoạt động.
– Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác dạy học.
2.Đối với nhà trường:
– Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.
– Có thêm nhiều sách tham khảo.
– Trường phải có biện pháp cứng rắn đối với những HS thường xuyên nghỉ học hay bỏ học.
Đối với địa phương, gia đình:
– Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều hơn.
– Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con em.
– Cần mua sắm sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Phạm Minh Hạc (1996), Tâm lí học, NXB. Giáo dục
Nguyễn Đức Hoành (2006), Chuyên đề : Một số Phương pháp và Hình thức tổ chức dạy học
Nguyển Sinh Huy (1997), Giáo dục học, NXB.Giáo dục
Luật giáo dục (NXB Chính trị Quốc Gia-1998)
5. Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Bộ GDSX năm 2005)
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT. 1
III.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 3
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.. 6
1.1 Thế nào là tích cực, tự giác?. 6
1.2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. 7
1.3. Tác dụng của dạy học tích cực. 7
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.. 9
2.1. Đặc điểm chung của lớp 1B.. 9
2.2 Thực trạng của vấn đề. 9
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH.. 11
3.1. Biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp1: 11
3.2.Tổ chức thực hiện: 15
3.2.1. Đối với việc học ở nhà: 15
3.2.2. Đối với việc học ở lớp: 15
3.2.3. Đối với môn toán: 16
3.2.4. Đối với môn Tiếng việt: 18
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN.. 21
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 25
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
– GV: Giáo viên
– HS: Học sinh
– PPDH: Phương pháp dạy học
– GD: Giáo dục
– GDTH: Giáo dục tiểu học
– DĐH: Đồ dùng dạy học
– GVCN: Giáo viên chủ nhiệm
PHẦN MỞ ĐẦU
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Với từng nhịp đập của thời chúng tôi người, vạn vật không ngừng thay đổi và phát triển để tồn tại. Đặc biệt là con người, muốn vươn lên làm bá chủ vạn vật thì bản thân phải không ngừng học hỏi, tìm kiếm, tích lũy để phát triển. Cội nguồn của mọi sự phát triển đó chính là sự phát triển của Giáo dục(GD)
Giáo dục chính là nền tảng phát triển của con người, thậm chí là tương lai của một đất nước. Để có một nền tảng giáo dục tốt cần phải có những người thầy giỏi, tận tâm, tận lực với nghề để đưa những chuyến đò tri thức cập bến.
Giáo dục là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục (GD) cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh (HS), đặc biệt là Giáo dục Tiểu học, đây là bậc học mang tính chất nền móng nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để phát triển mọi mặt sau này.
Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản( nghe, nói, đọc, viết, và tính toán) của học sinh được hình thành ở Tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời con người. Học sinh Tiểu học được dạy từ những điều nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng sáng tạo. Như vậy Giáo dục Tiểu học là nền tảng cho sự hình thành và phát triển toàn diện của con người.Thành quả của giáo dục tiểu học có giá trị lâu dài, có tính quyết định. Vì thế làm tốt GDTH là đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước
Xác định được tầm quan trọng của GD như vậy thì GD nước nhà không thể dậm chân tại chổ theo lối dạy học truyền thụ một chiều,không phải dạy cho trẻ hiểu nhiều, biết rộng mà chỉ cho trẻ cách hành động, tự tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, đây mới là phương châm của nền GD mới.Vậy để GD có hiệu quả và đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng dạy chúng ta cần biết sử dụng và kết hợp một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học, biết lựa chọn các hình thức tổ chức phù hợp với mục tiêu và nội dung của bài học và đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Song để đi đến thành công GD đòi hỏi mọi người phải không ngừng nổ lực phấn đấu, sáng tạo, tích cực đổi mới phương pháp dạy học, đầu tư thích đáng vào công việc của mình. Đây là một công việc vừa mang tính GD vừa mang tính nghệ thuật.. chúng tôi Men Xi đã viết “GD có mục đích đánh thức năng lực nhạy cảm, phán đoán đúng đắn, phát triển nhân cách… hãy tìm ra phương pháp cho gíáo viên dạy ít hơn, học sinh hiểu nhiều hơn”. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1 trường Tiểu học Quảng Kim” để làm bài báo cáo thu hoạch của mình.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU :
Để đất nước vươn mình, sánh vai với các cường quốc năm châu đòi hỏi đi đầu trong công cuộc đổi mới đó chính là GD. giáo dục phải đổi mới phương pháp dạy học để tạo ra những thế hệ con người nhận thức sâu sắc, biết tự giác chủ động sáng tạo trong công việc. Nhìn lại việc học tập của các em ở trường, chúng tôi thấy nhận thức của các em còn nhiều hạn chế, ý thức tự học, tự rèn luyện rất ít. Chính vì vậy báo cáo này bước đầu đưa ra những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp 1.
III.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:
1.Nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của quá trình phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh lớp1.
2.Tìm hiểu thực trạng học tập của học sinh lớp 1.
3.Đề xuất biện pháp và xây dựng kế hoạch nhằm phát huy tính tích cực , tự giác của học sinh tại trường.
ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp để phát huy tính tích cực, tự giác học tập của học sinh lớp 1 tại trường chúng tôi.
Khách thể nghiên cứu:
Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu 21 em học sinh lớp 1 tại trường chúng tôi.
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp quan sát:
Đây là phương pháp giúp ta quan sát thái độ, hành vi của học sinh, phát hiện ra những hành vi, cử chỉ của học sinh trong học tập, sinh hoạt… Để phát huy tính tích cực, tự giác của học sinh.
Phương pháp thực nghiệm:
Khi tiến hành nghiên cứu tạo ra một số tình huống, những hoàn cảnh, những điều kiện rất gần gũi của cuộc sống để đưa đối tượng vào vấn đề, từ đó nghiên cứu thu lại được những tư liệu cần thiết. Đây là một phương pháp hết sức quan trọng và rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động:
Qua phương pháp này làm cho người giáo viên thấy được những thiếu sót và
những chỗ hổng của học sinh để có phương pháp làm cho hoạt động của mình đạt chất lượng cao.
Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm:
Nhờ phương pháp này mà người nghiên cứu có thể tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm của giáo viên chỉ đạo về việc phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh qua các mặt hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể và hoạt động ngoại khoá, từ đó rút ra bài học và nêu được những biện pháp khắc phục và đề xuất.
Phương pháp đàm thoại:
Với học sinh tiểu học, phương pháp đàm thoại trò chuyện là một hình thức tốt nhất để giáo viên có thể gần gũi các em, đồng thời thăm hỏi trò chuyện với một số phụ huynh học sinh. Qua đó chúng ta có thể biết tâm sự, tình cảm, nguyện vọng của các em về việc học ở lớp cũng như việc học ở nhà của các em như thế nào? Để từ đó, giáo viên có phương pháp và hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm làm cho người dạy đạt kết quả tốt nhất.
Phương pháp thống kê, tính toán:
Phương pháp thống kê tính toán, qua những thông tin tài liệu thu thập được, tôi đã vận dụng phương pháp này để thống kê lại tình hình và tính toán các số liệu cần thiết để biết được chất lượng học tập của học sinh thời gian sau so với thời gian trước như thế nào?
Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu
Ngoài các phương pháp trên tôi còn sử dụng một số phương pháp khác nữa trong quá trình nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Thế nào là tích cực, tự giác?
Trong quá trình giáo dục học sinh với tư cách là đối tượng của hoạt động giáo dục, vừa là chủ thể của quá trình tự giáo dục, tự rèn luyện nhân cách của mình. Như vậy, vai trò chủ đạo của giáo viên, toàn bộ các tác động giáo dục của nhà trường sẻ không có hiệu quả, thực chất nếu không tạo ra được sự kết hợp hài hoà giữa hoạt động của thầy và hoạt động tích cực sáng tạo của trò. Từ trước đến nay, nhiều công trình nghiên cứu giáo dục cho thấy kết quả giáo dục phụ thuộc rất nhiều vào sự hoạt động hưởng ứng tích cực, chủ động sáng tạo của từng học sinh cũng như hoạt động tích cực, độc lập của tập thể học sinh với tư cách vừa là đối tượng vừa là chủ thể của việc giáo dục.
Như vậy, tích cực, tự giác, độc lập có nghĩa là trong quá trình học tập, người học sinh tự đặt ra mục đích học tập, tích cực tìm ra các biện pháp tối ưu để vận dụng vào kết quả học tập, không chỉ thế, người học sinh phải luôn hứng thú, say mê học tập, xem việc học là một nhiệm vụ của mình phải hoàn thành. Do đó, khi áp dụng vào thực tế giáo dục đòi hỏi ở người giáo viên phải có trình độ sư phạm vững, hiểu sâu sắc đối tượng để chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng, vốn kinh nghiệm của học sinh. Từ những yêu cầu chung, khơi gợi sự chú ý, sự quan tâm tìm cách cụ thể hoá, tự xác định các yêu cầu các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Về thái độ, người giáo viên nên có thái độ khoan dung, biết lắng nghe và tôn trọng, biết cách hổ trợ, giúp đỡ các em đúng lúc, đúng chổ nhưng không làm thay. Trong những tình huống nhất định, đối với đối tượng cá biệt cần có sự đối xữ thích hợp, có thể linh hoạt trong cách ứng xữ nhưng luôn có thái độ chân thành. Ngoài ra người giáo viên biết tạo ra dư luận đúng đắn, kịp thời hổ trợ, đề cao, khuyến khích cái hay, cái mới, cái tốt trong mọi hoạt động của học sinh, gây dựng lòng tin ở học sinh và bản thân. Trong môi trường giáo dục, cần có sự thông hiểu, lòng vị tha, sự quan tâm giữa các thành viên, trên cơ sở tình cảm đạo đức trong sáng, mang tính nhân đạo cao thượng. Đây là yếu tố tiềm ẩn nhưng có tác dụng cảm hoá, thuyết phục cao trong công tác giáo dục.
1.2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh
Quá trình dạy học gồm hai hoạt động hữu cơ: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục đích giáo dục. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức. Hoạt động này chỉ có hiệu quả khi học sinh học tập một cách tích cực, chủ động, tự giác với một động cơ nhận thúc đúng đắn.Kết quả học tập của học sinh là thước đo kết quả hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong quá trình dạy học, điểm tập trung là bản thân người học, chứ không phải là người day, tức là hoạt động dạy học cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học ở các lứa tuổi khác nhau. Như vậy mục đích của dạy học ở đây là trẻ em phát triển trên nhiều mặt, chứ không chỉ nhằm lĩnh hội kiến thức. Do đó cần thật sự coi trọng việc hình thành, phát triển những kỷ năng tự học và có khả năng đáp ứng yêu cầu của dòng tri thức không ngừng gia tăng.
Chương trình và kế hoạch dạy học phải căn cứ vào nhu cầu, hứng thú, năng lực của học sinh, giúp các em có được thái độ đúng và nắm được những kiến thức, kỷ năng, kỷ xão, phát huy đầy đủ nhất năng lực của mình. Vì vậy trong khi dạy học cần tạo điều kiện cho học sinh chủ động tiếp thụ các kiến thức, kỷ năng…biết biến những cái đó thành kiến thức, kỷ năng của mình. Nói cách khác là biết điều cần học thành cái “ vốn ”, cái “ tài sản ” của bản thân. Học tập như vậy khiến sự hiểu biết của các em được vững chắc hơn, hứng thú của các em được tăng cường hơn. Khi dạy học hoạt động tư duy của các em được khơi dậy, phát triển và coi trọng. Đó chính là dạy học phát huy tính tích cực
1.3. Tác dụng của dạy học tích cực
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh có tác dụng rất lớn. Dạy học phát huy tính tích cực tạo điều kiện tối đa để phát huy vai trò chủ thể của người học. Trong dạy học phát huy tính tích cực của học sinh, học sinh giữ vai trò chủ động hơn. Người học không là người tiếp nhận thông tin một cách bị động, không chủ yếu tiếp nhận thông tin từ giáo viên mà chủ động lĩnh hội thông tin, suy nghĩ, tìm tòi, khám phá các khía cạnh khác nhau của thông tin, sắp xếp lại thông tin. Người học hợp tác với các bạn cùng học để lĩnh hội thông tin, để giúp đỡ nhau trong học tập. Dạy học phát huy tính tích cực không chỉ giúp người học lĩnh hội nội dung kiến thức mà còn hình thành và phát triển những kỷ năng học tập của mình, hình thành và phát triển cách học. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh nâng cao hiệu quả
và chất lượng dạy học, đảm bảo tính toàn diện, cụ thể làm cho học sinh:
– Nắm vững, hiểu sâu và hiểu sâu kiến thức
– Luôn luôn củng cố và phát triển cách học của mình.
– Phát triển những phẩm chất đạo đức cá nhân như tính kiên trì, lòng nhẫn nại, tinh thần trách nhiệm và ý thức tập thể
– Phát triển được tinh thần hợp tác và tương trợ lẫn nhau.
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Đặc điểm chung của lớp 1B
Lớp 1B có 21 học sinh, trong đó có 10 em HS nữ, 11 em HS nam đều nằm trong độ tuổi sinh năm 2010
Sau 1 học kì, các cán bộ lớp luôn được thay đổi nhằm phát huy mọi năng lực chinh bản thân mỗi em. Bên cạnh đó sơ đồ vị trí lớp học luôn được thay đổi sau mỗi mỗi kì nhằm hạn chế các tật về mắt.
Các em học tập chăm chỉ, đạo đức tốt, sức khoẻ bình thường, ít em nghỉ học
* Thuận lợi: Đa số các em đều chăm ngoan, biết vâng lờ thầy cô, cha mẹ. Có ý thức học tập và lao động tốt, Biết giữ gìn vệ sinh cá nhâ, vệ sinh trường lớp sạch sẽ. Học sinh cùng độ tuổi sinh năm 2010 nên giáo viên thuận lợi trong việc quản lí và giáo dục học sinh. Đa số phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học của con em mình,các em được chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập đầy đủ khi đến lớp. Trường lớp sạch sẽ, thoáng mát, các phòng học đều có điện quạt, phục vụ cho việc dạy và học, trang thiết bị dạy học tương đối đầy đủ.
* Khó khăn: Nhiều học sinh ở khá xa điểm trường, đường sá đi lại khó khăn, nhiều sông suối, rừng núi nên ảnh hưởng nhiều đến việc đến trường, đặc biệt là vào mùa mưa lũ, nhiều học sinh phải nghỉ học. Một số em gia đình có hoàn cảnh khó khăn,con thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, con đông, ăn uống còn thiếu thốn nên không đảm bảo sức khỏe cho việc học tập ngày 2 buổi.Các em học sinh ở lứa tuối nhỏ, còn hiếu động, ham chơi hơn ham học, chưa có ý thức đầy đủ về học tập nên giáo viên rất vất vả, thường xuyên nhắc nhở, uốn nắn để sinh hoạt học tập đúng theo nội qui nhà trường, còn một số ít cha mẹ học sinh chưa thật sự quan tâm đến việc học của con em mình nên việc truyền thụ kiến thức cho các em còn gặp khó khăn, trình độ học sinh không đồng đều.
2.2 Thực trạng của vấn đề
– Do vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của học sinh quá nghèo nàn. Học sinh không hiểu được yêu cầu của giáo viên trong giờ học. . – Do đồ dùng dạy học, sách giáo khoa còn thiếu nên ảnh hưởng tới sự tích cực của học sinh. . – Giáo viên chưa tạo điều kiện để học sinh tìm tòi tiếp nhận tri thức chưa để HS chú trọng trong học tập. – GV chưa coi trọng việc tổ chức các hoạt động của HS. – GV chưa sử dụng phối hợp các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc điểm học sinh.
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
3.1. Biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp1:
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú học tập cho học sinh thì đòi hỏi ở người giáo viên rất nhiều điều. Trước hết đòi hỏi người giáo viên phải có tay nghề vững vàng, phải biết yêu nghề, mến trẻ tức là phải có năng lực sư phạm.
Vậy thế nào được gọi là năng lực sư phạm? Năng lực sư phạm là những đặc điểm tâm lí mà nó giúp cho giáo viên hoạt động có hiệu quả, năng lực sư phạm gồm:
– Năng lực khoa học
– Năng lực hiểu học sinh
– Năng lực ngôn ngữ
– Năng lực tổ chức
– Năng lực phân phối chú ý
– Năng lực trình bày bài giảng
– Óc tưởng tượng sư phạm
Ngoài ra giáo viên muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh thì cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp. Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát huy tính tích cực của học sinh để phù hợp với từng nội dung môn học, từng đối tượng và trong quá trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp sau để phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh trong học tập, cụ thể là:
Phương pháp thuyết minh. 9. Phương pháp trò chơi học tập.
Phương pháp đàm thoại. 10. Phương pháp quan sát.
Phương pháp hỏi đáp. 12. Phương pháp nêu vấn đề.
Phương pháp tìm tòi. 13. Phương pháp giải quyết vấn đề.
Phương pháp kể chuyện. 14. Phương pháp khảo sát điều tra.
Phương pháp động não. 15. Phương pháp thực hành luyện tập.
Phương pháp đóng vai. 16. Phương pháp lập luận đề án.
Dạy học cá nhân: Là chú ý phát triển năng lực riêng của từng học sinh. Đồng thời rèn cho các em có thói quen tự học, tự làm việc, hình thức dạy học cá nhân rất đa dạng, có thể làm việc với phiếu học tập, ngoài ra còn có một số hình thức khác như: Làm bài tập trong sách, làm các trò chơi, tiến hành các thí nghiệm, sự thể hiện tài năng, các hoạt động độc lập như: Sưu tầm tranh ảnh, thu tập tài liệu, khảo sát thực tế nơi mình ở.
Dạy học theo nhóm: Tác dụng của việc dạy học theo nhóm là đề cao vai trò tự hợp tác trách nhiệm cá nhân với tập thể. Đồng thời dạy học theo nhóm rèn luyện cho học sinh những kĩ năng: Biết lắng nghe lựa chọn, tiếp nhận ý kiến của người khác để bổ sung vào sự hiểu biết của mình, đồng thời học sinh biết trình bày ý kiến của mình cho bạn nghe và học được công tác tổ chức, điều khiển.
Dạy học theo nhóm có nhiều hình thức khác nhau:
– Tìm hiểu, điều tra về một vấn đề thực tế, hay trao đổi chung quanh một đề tài.
– Ôn tập tổng kết sau một bài hay một chương.
– Thực hiện một bài tập hay một nhiệm vụ học tập.
– Tiến hành một thí nghiệm hay một trò chơi học tập.
– Xây dựng một phương án hay một kế hoạch.
Dạy học theo lớp: Là một hình thức dạy học cơ bản, khá phổ biến trong dạy học lấy GV làm trung tâm. Trong dạy học lấy HS làm trung tâm, để xuất hiện nhiều hình thức dạy học phù hợp với các PPDH đề cao vai trò hoạt động nhận thức của học sinh. Dạy học theo lớp tuy có nhiều tác dụng tích cực, nhưng không diễn ra suốt buổi học mà chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, vào những lúc thích hợp của tiết học như vào đầu, giữa và cuối tiết học.
Dạy học ngoài trời: Có nhiều nội dung gần gũi, gắn với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh. Những bài học đó nếu có điều kiện nên tổ chức cho học sinh học ngoài trời những địa điểm thích hợp như vườn trường, sân trường hoặc những địa diểm gần trường. Vì việc học ngoài trời giúp học sinh có biểu tượng rõ nét, cụ thể về sự vật, hiện tượng nên nắm bài tốt hơn vì mắt thấy, tai nghe…Đồng thời rèn luyện kĩ năng quan sát, phát triển tư duy cụ thể. Mặt khác, bồi dưỡng tình cảm đối với thiên nhiên, thói quen hợp tác, học hỏi lẫn nhau.
Tham quan: Tham quan là một hình thức để học sinh được học ngoài hiện trường, thực tế như tham quan các xí nghiệp, đồng ruộng, khu chăn nuôi, nhà bảo tàng, khu di tích lịch sử, văn hoá hoặc rừng, sông, hồ, thác nước…
Tham quan có tác dụng nhiều mặt đối với sự phát triển của học sinh. Học sinh có điều kiện trực tiếp trong thực tế với các nội dung đã được học trong lớp nên lĩnh hội kiến thức dễ hơn, chắc hơn, nhớ kĩ hơn. Liên hệ thực tế với bài học HS phát triển kĩ năng quan sát, so sánh, óc tò mò, trí tưởng tượng, bồi dưỡng hứng thú học tập, tăng cường sự hiểu biết.
Trò chơi học tập: Đây là một loại hoạt động không thể thiếu được trong mọi lứa tuổi. Đặc biệt là những em ở lứa tuôi tiểu học nói riêng và học sinh lớp 1 nói chung. Trò chơi giúp các em phát triển. Bên cạnh đó sẽ thúc đẩy quá trình nhận thức của các em có hiệu quả. Vì vậy tổ chức trò chơi chú ý những đặc tính: Vui – Khoẻ – An toàn – Có ích; trong đó bao gồm cả giải trí, thư giản…được xem là một yếu tố cơ bản của trò chơi.
Trò chơi học tập là một hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn học sinh, có hai đặc điểm cơ bản sau:
+ Mục tiêu và nội dung trò chơi phục vụ cho kiến thức và kĩ năng trọng tâm của bài học, đó là nội dung chính của bài học.
+ Mang đầy đủ tính chất của một trò chơi: Có luật chơi, cách chơi, gây hứng thú và sự thi đua giữa học sinh các nhóm.
Quan trọng hơn vẫn là sau mỗi trò chơi học sinh càng ham thích hoạt động, tự tin ở bản thân, mạnh dạn khẳng định bản thân.Bên cạnh đó, tinh thần đồng đội, đoàn kết, sự quan tâm giữa những thành viên trong lớp
Tóm lại: Đổi mới PPDH cũng như đổi mới hình thức tổ chức dạy học, mục đích chính là nhằm vào đối tượng học sinh, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác của học sinh trong học tập, tập trung vào các vấn đề sau:
– Dạy học hướng tập trung vào học sinh: Phương pháp này làm cho học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo và linh hoạt trong học tập.
– Dạy học nêu vấn đề: Là sự tổ chức quá trình dạy học bao gồm việc tạo ra tình huống có vấn đề trong giờ học, kích thích ở học sinh nhu cầu giải quyết vấn đề nảy sinh, lôi cuốn các em vào hoạt động nhận thức tự lực nhằm nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, phát triển tính tích cực trí tuệ và hình thành cho các em năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội thông tin khoa học mới.
– Tăng cường tính tích cực, tư duy của học sinh khi giáo viên trình bày kiến thức bằng lời; phương pháp này sẽ củng cố hứng thú học tập của học sinh, nâng cao tính ham hiểu biết và tò mò trong quá trình thông hiểu các vấn đề nghiên cứu.
– Lời nói sinh động của giáo viên kết hợp với tính trực quan có hiệu quả to lớn trong việc dạy học. Việc dạy học trực quan không những làm cho quá trình học tập thêm sinh động mà nó còn góp phần rèn luyện tư duy phân tích, tập cho các em nhìn thấy bản chất của các đối tượng ẩn sau các hình thức và những biểu hiện bề ngoài, kích thích ham hiểu biết của học sinh.
– Cải tiến công tác tự học: Công tác tự học giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao tính tích cực hoạt động trí tuệ của học sinh khi thông hiểu và tiếp thu kiến thức mới, không phải vô cớ mà trong giáo dục học coi trọng sự nghiên cứu của cơ sở lí luận dạy học của việc tổ chức công tác tự học của học sinh.
– Ngoài 4 nội dung trên, thái độ ngôn ngữ truyền đạt, tình cảm quan hệ giữa giáo viên (GV) và HS cũng giữ vai trò hết sức quan trọng. Do đó đòi hỏi người GV phải là người mẫu mực, là tấm gương, là thần tượng của các em.
3.2.Tổ chức thực hiện:
3.2.1. Đối với việc học ở nhà:
– Cho học sinh lập thời gian biểu học ở nhà, ghi rõ từng công việc cụ thể gắn liền với thời gian cụ thể.
– Tổ chức họp phụ huynh từng kì để trao đổi vấn đề học tập của các em cho phụ huynh biết rõ đồng thời thông qua hội cha mẹ học sinh, kết hợp với cha mẹ học sinh để thăm dò quản lí việc học tập của các em.
– Thường xuyên đến thăm gia đình học sinh, đặc biệt là những em cá biệt, những em yếu kém để phối hợp giáo dục có hiệu quả, phải có thông tin thường xuyên giữa gia đình và giáo viên chủ nhiệm.
– Phát huy các phong trào học theo nhóm nhỏ (những em nhà ở gần nhau).
3.2.2. Đối với việc học ở lớp:
– Mượn thư viện của trường: Sách, đồ dùng học tập cho những học sinh còn thiếu.
– Duy trì nề nếp kiểm tra bài cũ, chữa bài tập thường xuyên với hình thức giáo viên hoặc cán sự lớp theo dõi kiểm tra.
– Kiểm tra thường xuyên về tinh thần, ý thức chuẩn bị đồ dùng học tập của các em thông qua tổ trưởng, lớp trưởng.
– Có hình thức nhắc nhở, khen thưởng cụ thể, kịp thời và hợp lí. Động viên, khuyến khích kịp thời những em chăm học và nhắc nhở những em lười học và không chú ý trong giờ học.
– Câu hỏi kiểm tra ngắn gọn, sát nội dung bài học và phù hợp với ba đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình để học sinh nắm bài được tốt.
– Tạo hứng thú cho học sinh bằng cách nêu gương và thi đua giữa các tổ, nhóm hoặc giữa các cá nhân…
– Thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực cụ thể từng môn.
3.2.3. Đối với môn toán:
– Khi đến lớp: GV sử dụng nhiều phương pháp như: Trực quan, đàm thoại, thuyết trình, thực hành. Bởi vì học sinh tiểu học, tư duy của các em là trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Do đó, GV phải sử dụng triệt để các dồ dùng dạy học (ĐDDH). Bên cạnh đó GV nên dành nhiều thời gian cho HS thực hành nhằm phát huy óc tưởng tượng, tư duy sáng tạo của các em. Sau mỗi dạng bài chúng ta nên cho HS chốt kiến thức bài đó.
– Tạo hứng thú cho các em bằng cách: Tổ chức thi giải toán nhanh; đố vui để học hoặc trò chơi học tập; thi điền đúng điền nhanh kết quả giữa các cá nhân, giữa các tổ, nhóm… Sau đó cho học sinh cả lớp nhận xét, đánh giá, GV bổ sung và tuyên dương, khen thưởng, khuyến khích tinh thần cố gắn học tập để các em lần sau thêm tự tin.
* VD: Toán : Bài phép trừ trong phạm vi 4
Khi hướng dẫn hs thực hiện phép trừ trong phạm vi 4, để giúp hs dễ dàng hình dung ra thế nào là trừ( trừ là lấy đi, mất đi , cho đi) thì gv phải sử dụng hình ảnh trực quan: tranh ảnh hoặc thao tác trên vật thật để hs dễ dàng
hình dung.
Hình 1: Phép trừ trong phạm vi 4
Bài 1: Tính
4 – 1 = 4 – 2 = 3 + 1 = 1 + 2 =
3 – 1 = 3 – 2 = 4 – 3 = 3 – 1 =
2 – 1 = 4 – 3 = 4 – 1 = 3 – 2 =
Bài này GV có thể tổ chức cho HS hoạt động nhóm 4, mỗi nhóm thực hiện một cột, nhóm trưởng hướng dẫn các thành viên trong nhóm thực hiện
Hình 2 : Hoạt động nhóm
Cuối bài, để củng cố lại bảng trừ trong phạm vi 4, giáo viên có thể tổ chức cho HS tham gia trò chơi tiếp sức. Tổ chức thành 2 đội, mỗi đội 5 hoặc 4 HS. Sau khi GV ra hiệu lệnh từng thành viên các đội tuyền tay nhau tìm kết quả . Đội nào tìm nhanh, đúng được nhiều kết quả đội đó chiến thắng
Hình 3: Trò chơi học tập” Tiếp sức”
3.2.4. Đối với môn Tiếng việt:
– Khi hướng dẫn học sinh trả lời bài cũ: Yêu cầu học sinh đọc bài và trả lời câu hỏi ngắn gọn, đúng nội dung và đảm bảo kiến thức trọng tâm, mức độ hoàn thành từ 50% trở lên.
– Khi hướng dẫn HS học bài mới ở nhà, GV yêu cầu:
+ Đối với phân môn Tập đọc: Yêu cầu HS đọc bài trước, tìm hiểu kĩ cách đọc, tập đọc diễn cảm và trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa.
+ Đối với phân môn Chính tả: Yêu cầu học sinh đọc trước bài cần viết, tập chép bài đó vào vở ở nhà.
Đặc biệt phương pháp trực quan, hoạt động nhóm và hoạt động sắm vai giúp cho HS có hứng thú học tập và giúp cho học sinh học sôi đông hơn. Từ đó tăng hiệu quả giờ học, còn phương pháp thực hành thì giúp các em biết vận dụng kiến thức vào thực tế và củng cố kiến thức cho các em.Tạo hứng thú cho các em bằng phương pháp nêu gương, thi đua giữa các cá nhân, giữa các nhóm, tổ… qua các trò chơi học tập…
* VD: Học âm /gi/ – Tiếng việt CGD lớp 1
Trong bài học vần này GV có thể sử dụng một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực cho HS như sau:
Việc 0: Tiến hành bình thường
Việc 1: Trong phần tìm tiếng mới bằng cách cho HS thay thanh, thay phụ âm đầu trong mô hình:
GV có thể tổ chức trò chơi”Bắn tên” hoặc trò chơi” Xì điện” để HS tìm ra được nhiều tiếng mới vừa tạo không khí lớp học sôi nổi hơn, vừa rèn cho HS kĩ năng điều hành hoạt động học tập trong lớp
Hình thức trò chơi” Bắn tên” như sau:
Gọi 1 HS lên điều hành trò chơi, Khi HS này hô bắn tên, bắn tên cả lớp hô đồng thanh tên gì tên gì, khi đó người điều hành sẽ chỉ tên 1 bạn trong lớp, bạn đó sẽ phải đọc lên tiếng mới mà mình vừa tìm được. Ai không nêu được tiếng mới hoặc nêu sai là người thua cuộc.
Hình 4: Trò chơi” Bắn tên”
* DV: Dạy viết chữ /gi/: GV có thể sử dụng phương pháp trực quan, cho HS quan sát chữ gi in thường và gi viết thường trên tranh theo mẫu chữ viết của Bộ Giáo dục, yêu cầu HS nhận xét độ cao độ rộng chữ, so sánh chữ gi in thường và gi viết thường, chữ gi viết thường có nét giống con chữ nào đã học Sau đó GV viết mẫu, hướng dẫn HS cách viết
Như vậy cùng một lúc GV đã rèn cho HS hình thành các kĩ năng (nghe,nhìn, tổng hợp, so sánh) từ đó các em ghi nhớ lâu hơn, cụ thể hơn.
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Ở trường Tiểu học hiện nay nói chung và lớp 1A tôi đang nghiên cứu nói riêng, với PPDH mới kết hợp với hình thức tổ chức dạy học mới (Dạy học cá nhân, theo nhóm, theo lớp, dạy học ngoài trời, tham quan, trò chơi học tập..) đã làm cho HS học tập một cách tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo.Mặt khác còn kích thích được phong trào thi đua học tập trong lớp . Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều em rụt rè nay đã hăng say phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, HS hứng thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng, DH theo hướng đổi mới sẽ huy động được năng lực, nghệ thuật sư phạm của GV. Thực tế cho thấy rằng người GV không chỉ cung cấp cho HS những tri thức, kĩ năng cần thiết mà còn truyền đến cho các em cả lương tâm, tình cảm và trách nhiệm của chính mình.
* Kết quả khảo sát học kì I
Đánh giáđịnh kì Điểm 9- 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5
SL TL SL TL SL TL SL TL
Tiếng việt 13 62% 7 33% 1 5%
Toán 17 81% 4 19%
Đánh giáthường xuyên Hoàn thành tốt(T) Hoàn thành(H) Chưa hoàn thành(C)
SL TL SL TL SL TL
Tiếng việt 13 62% 8 38%
Toán 17 81% 4 19%
Đạo đức 15 71% 6 29%
Âm nhạc 10 48% 11 52%
Mĩ thuật 9 42% 12 58%
Thủ công 12 58% 9 42%
Thể dục 14 67% 7 33%
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Qua những lần đi tìm hiểu thực tế hoàn cảnh gia đình HS và đặc biệt là những giờ thực tập giảng dạy. Bản thân tôi đã rút ra cho mình những bài học bổ ích.
Dạy học vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Muốn dạy học có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đào tạo hiện nay của Đảng và Nhà nước. Đòi hỏi người GV phải nổ lực, sáng tạo, không ngừng cải tiến phương pháp để nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Về công tác giảng dạy:
Muốn nâng cao hiệu quả và học tập hứng thú trong quá trình giảng dạy, đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị: kế hoạch dạy học, hệ thống câu hỏi:
– Thâm nhập kĩ giáo án, hiểu rõ ý đồ sách giáo khoa .
– Có thiết kế khoa học, hệ thống câu hỏi ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu.
– Lựa chọn phương pháp dạy học, có hiểu quả.
– Sử dụng tốt các câu chuyển ý, chuyển đoạn, tạo ra sự liên kết chặt chẽ, lôgic
của bài dạy.
– Sử dụng tối đa ĐDDH và có hiệu quả trong từng tiết dạy, trong từng môn học.
– GV phải có vốn hiểu biết nhất định và kiến thức xã hội.
– GV cần tạo điều kiện để HS tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh tri thức.
Để đạt được những mong muốn đó, bản thân tôi ngay từ bây giờ tôi xác định rằng muốn trở thành một người GV thực sự thì trước hết phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, lòng say mê nghề nghiệp và ý chí quyết tâm cao. Phải có ý thức trách nhiệm đối với bản thân, đối với nghề nghiệp và xã hội.
Để chuẩn bị cho một giờ lên lớp, GV cần phải chuẩn bị rất chu đáo về mọi công việc như: ĐDDH, giáo án và thâm nhập giáo án một cách kĩ càng. Khi đứng lớp phải bình tĩnh, tự tin, tác phong nhanh nhẹn, ngôn ngữ truyền đạt rõ ràng để làm sao hướng đẫn HS cho hiểu nội dung bài một cách dễ dàng. Đồng thời khai thác nội dung để phát huy tính sáng tạo của HS khá, giỏi.
Về công tác chủ nhiệm:
GV chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng, GV chủ nhiệm thường là người dạy chủ yếu của lớp, đồng thời tổ chức lãnh đạo, điều hành, kiểm tra đánh giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng xử trong phạm vi lớp mình phụ trách, nhằm hình thành nhân cách của HS. Với vai trò, vị trí như vậy GV chủ nhiệm còn là cầu nối liền giữa nhà trường với đời sống xã hội.
Để trở thành người GVCN giỏi thì ngoài những công việc trên, người GV phải rèn cho mình những năng lực sau:
– Phải quan tâm chăm sóc, gần gũi với học sinh.
– Phải xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
– Phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy,nề nếp của trường, lớp.
– Xây dựng và phát triển quan hệ, kết hợp với lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường theo phương châm xã hội hóa giáo dục nhằm mục tiêu giáo dục học sinh.
Thông thường trẻ ở Tiểu học tin tưởng tuyệt đối vào GV, đặc biệt là GVCN. Do đó phẩm chất và năng lực của GVCN là nhân tố hết sức quan trọng đối với việc đảm bảo chất lượng giáo dục nói chung.
KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
– Cung cấp kịp thời việc đổi mới phương pháp hoạt động.
– Nên duy trì thường xuyên tổ chức hội thảo, chuyên đề về công tác dạy học.
2.Đối với nhà trường:
– Quán triệt hơn nữa tinh thần học tập của học sinh.
– Có thêm nhiều sách tham khảo.
– Trường phải có biện pháp cứng rắn đối với những HS thường xuyên nghỉ học hay bỏ học.
Đối với địa phương, gia đình:
– Gia đình phải chú trọng quan tâm đến việc học hành của con cái nhiều hơn.
– Gia đình cần dành nhiều thời gian giám sát việc học ở nhà của con em.
– Cần mua sắm sách vở, đồ dùng học tập cho học sinh đầy đủ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Phạm Minh Hạc (1996), Tâm lí học, NXB. Giáo dục
Nguyễn Đức Hoành (2006), Chuyên đề : Một số Phương pháp và Hình thức tổ chức dạy học
Nguyển Sinh Huy (1997), Giáo dục học, NXB.Giáo dục
Luật giáo dục (NXB Chính trị Quốc Gia-1998)
5. Dự án Giáo dục tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn (Bộ GDSX năm 2005)
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT. 1
III.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: 3
V.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.. 6
1.1 Thế nào là tích cực, tự giác?. 6
1.2. Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. 7
1.3. Tác dụng của dạy học tích cực. 7
CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TIỄN.. 9
2.1. Đặc điểm chung của lớp 1B.. 9
2.2 Thực trạng của vấn đề. 9
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, TỰ GIÁC TRONG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH.. 11
3.1. Biện pháp phát huy tính tích cực, tự giác trong học tập của học sinh lớp1: 11
3.2.Tổ chức thực hiện: 15
3.2.1. Đối với việc học ở nhà: 15
3.2.2. Đối với việc học ở lớp: 15
3.2.3. Đối với môn toán: 16
3.2.4. Đối với môn Tiếng việt: 18
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ THỰC HIỆN.. 21
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 25
Dạy Học Phát Huy Tính Tích Cực Của Học Sinh
DẠY HỌC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
Hiện nay nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với thế giới và các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó, nền giáo dục còn có những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã gây nên tình trạng thụ động trong học tập của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học ở một số bộ phận học lực yếu kém. Cùng với nhiều nguyên nhân, tình trạng này trở nên khá gay gắt, khó khắc phục. Nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong tình hình hiện nay, chúng tôi gửi đến bạn đọc một số nét định hướng đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo của người dạy và người học.
Ảnh: Internet
Tuy nhiên, tuỳ vào môn học, đối tượng học sinh, hoàn cảnh thực tế, điều kiện vật chất người dạy và người học cần làm tốt những dấu hiệu cơ bản sau:
1. Giáo viên có hành vi chuẩn mực, thái độ thân thiện, biết khích lệ tình cảm hứng thú và tinh thần tích cực chủ động trong học tập cho học sinh.
2. Giáo viên bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng của chương trình, biết nêu vấn đề và hướng dẫn học sinh tự giải quyết, bảo đảm kiến và kỹ năng, giáo viên “khai thác thác lỗi” để rèn luyện phương pháp học tập, giảm thời lượng thuyết trình của giáo viên đến mức thấp nhất, tăng hoạt động tìm tòi, tăng tính chủ động, tham gia xây dựng bài của học sinh.
3. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng hợp lý SGK trên lớp.
4. Giáo viên khai thác thiết bị dạy học (trong đó có công nghệ thông tin) tăng cường thí nghiệm, thực hành trực quan (kênh chữ, kênh hình) để nâng cao hiệu quả dạy học và gắn bài giảng sát với thực tế của cuộc sống.
5. Học sinh kết hợp học tập cá nhân với học tập tương tác, hợp tác, huy động mọi nhóm trình độ (giỏi, khá, trung bình, yếu, kém) tham gia xây dựng bài.
6. Học sinh hứng thú, tích cực, chủ động xây dựng bài.
7. Học sinh tự thực hành trực quan, và tự liên hệ với thực tế cuộc sống.
8. Học sinh biết cách tự đánh giá, kết hợp với đánh giá của thầy với của trò theo các mức độ (biết, thông hiểu, vận dụng).
9. Học sinh rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu để hoàn thành thói quen học suốt đời.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung. Trong đó hoạt động dạy và hoạt động học có tính độc lập tương đối nhưng là hai mặt của một quá trình, người giáo viên truyền đạt kiến thức, kỹ năng và hình thành nhân cách;học sinh làm chủ kiến thức kỹ năng theo chuẩn kiến thức kỹ năng quy định ở các bậc học. Tuy nhiên, đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp truyền thống mà phải vận dụng một cách có hiệu quả các phương pháp dạy học hiện có theo quan điểm dạy học tích cực kết hợp với các phương pháp hiện đại.
Nguyễn Văn Nhẫn – THPT số 5 Bố Trạch – Quảng Bình
Một Số Biện Pháp Giáo Dục Kỷ Luật Tích Cực Học Sinh Trong Lớp Học
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC HỌC SINH TRONG LỚP HỌC
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TÍCH CỰC HỌC SINH TRONG LỚP HỌC
Giáo dục kỷ luật tích cực: Là các biện pháp kỹ thuật không mang tính bạo lực, tôn trọng học sinh, cung cấp cho học sinh những thông tin biết để không vi phạm, chấp hành và ý thức tự giác. Giúp cho các em sự tự tin khi đến trường học và rèn luyện. Giáo dục kỷ luật tích cực (GDKLTC) là phương pháp giáo dục đạo đức giúp học sinh tiến bộ hơn trên cơ sở học sinh tự tìm, tự nhận ra và tự sửa chữa những khuyết điểm của mình.
Học sinh phát huy được tính tích cực
Phát triển ưu điểm của mỗi cá nhân
Giáo dục học sinh bằng tình thương, ý thức trách nhiệm và sự công bằng
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỶ LUẬT TÍCH CỰC ÁP DỤNG TRONG LỚP HỌC
Có nhiều biện pháp giáo dục kỷ luật học sinh được áp dụng trong lớp học. Có thể chia thành các nhóm biện pháp chính:
NHÓM 1: Thay đổi cách cư xử trong lớp
NHÓM 2: Quan tâm đến những khó khăn của HS
NHÓM 3: Tăng cường sự tham gia của HS
NHÓM 4: Tổ chức các hoạt động xây dựng tập thể lớp.
Nhóm biện pháp: Thay đổi cách cư xử trong lớp học
Thay đổi cách cư xử trong lớp học phải dựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu nhằm thúc đẩy Có nhiều biện pháp giáo dục kỷ luật có thể áp dụng được trong lớp học. Có thể chia thành các nhóm biện pháp học sinh có hành vi, thái độ cư xử đúng đắn.
a. Xây dựng những quy tắc rõ ràng và nhất quán
b. Khuyến khích, động viên tích cực
+ Việc khuyến khích, động viên tích cực có thể thực hiện dưới nhiều hình thức: 1 nụ cười, 1 lời khen, động viên trước lớp; tặng phiếu khen; thư khen gửi về gia đình, cá nhân…
+ Việc khen thưởng, động viên có hiệu quả nhất khi HS có hành vi tốt được hưởng một số quyền lợi, còn những HS mắc lỗi nhiều lần bị tước bỏ quyền hưởng quyền lợi đó.
+ Những quyền lợi phải là những điều HS thích và trân trọng.
+ Cần khen thưởng động viên từng tiến bộ nhỏ nhất của HS
c. Áp dụng những hình thức phạt phù hợp, công bằng và nhất quán
+ Khi phạt, GV cần nói rõ sai phạm của HS với thái độ khoan dung, nhân ái, độ lượng và bình tĩnh.
+ Các biện pháp xử phạt phải giúp HS biết rằng thái độ/hành vi của các em là sai.
+ Tuyệt đối không sử dụng hình phạt mang tính TPTT.
+ Các hình phạt phải phù hợp với mức độ vi phạm
+ Tránh gây căng thẳng, đối đầu với HS.
+ Áp dụng hình thức xử phạt một cách công bằng.
+ Không phạt HS vì những lỗi do những nguyên nhân khách quan.
+ Không phạt HS vì những quy định chưa được thỏa thuận trước
d. Làm gương trong cách cư xử
+ Dựa trên cơ sở động viên, khuyến khích, nêu gương, tìm hiểu… nhằm thúc đẩy học sinh có thái độ cư xử, hành vi đúng.
+ Hình thức: Phiếu khen, ghi lời nhận xét tốt về bạn, hộp thư vui,công nhận và khuyến khích các đặc điểm tốt…
+ Ngoài việc giáo viên khen ngợi học sinh, phải lưu ý khuyến khích những đối tượng khác như Cha mẹ, thầy cô khác, người thân, bạn bè, …của học sinh cùng hợp tác
Nhóm biện pháp “Quan tâm đến hoàn cảnh của học sinh”
– Việc tìm hiểu những khác biệt trong hoàn cảnh, khó khăn trong cuộc sống, học tập và những khó khăn về mặt tâm lí sẽ giúp giáo viên hiểu và tìm ra biện pháp giáo dục thích hợp
– Những hành vi tiêu cực/mắc lỗi của HS thường do những khó khăn mà HS gặp phải trong cuộc sống gây ra, tác động đến hành vi của HS.
Khó khăn của HS có thể bao gồm những khó khăn trong học tập, những vấn đề trong gia đình, những bức xúc mà HS gặp phải khi bị đối xử tàn tệ, bị tổn thương tâm lý, bị hiểu lầm,…
– Việc tìm hiểu những trở ngại trong học tập và những khó khăn về mặt tâm lý của HS sẽ giúp GV không cần phải dùng đến trừng phạt thân thể mà vẫn giáo dục HS có hiệu quả.
Để tìm hiểu nguyên nhân và giúp đỡ HS giải quyết khó khăn, GV cần lưu ý một số điểm sau:
+ Tránh đối đầu với HS, nhất là trước mặt những người khác
+ Lắng nghe trẻ nói và đặt mình vào vị trí của HS
+ Cần tránh “lên lớp” hoặc “chỉ trích” HS trước khi tìm hiểu nguyên nhân. Cố gắng giúp HS tìm ra giải pháp phù hợp với các em.
(tặng học bổng cho học sinh nghèo vượt khó trong học tập vào khai giảng năm học mới)
(tặng xe đạp cho học sinh nghèo đạt thành tích cao trong học tập)
NHÓM BIỆN PHÁP “TĂNG CƯỜNG SỰ THAM GIA CỦA HS”
Biện pháp xây dựng nội quy lớp học.
GV thông báo cho HS nội dung chính của năm học
Các nhóm chia sẻ ý kiến. GV và cả lớp xem xét tìm ra những ý kiến chung của tất cả HS.
Quy định chế độ thưởng và xử phạt.
Viết và trang trí nội quy lớp bằng chữ in lớn.
Xây dựng cam kết
Ban hành nội quy, thông báo/dán công khai ở nơi HS luôn nhìn thấy với hình thức hấp dẫn
Thông báo đến phụ huynh HS để cùng giám sát việc thực hiện
HS được tham gia là HS được cung cấp thông tin, được bày tỏ ý kiến, ý kiến của các em được lắng nghe và tôn trọng.
Sự tham gia của HS trong việc xây dựng nội quy lớp học là cần thiết vì:
Giúp HS hiểu, tôn trọng và thực hiện tốt nội quy do chính các em đề ra.
Giúp HS rèn KN giao tiếp, bày tỏ ý kiến và tham gia quá trình ra quyết định.
Phát huy tinh thần tập thể, nâng cao tinh thần trách nhiệm của HS.
Nhóm biện pháp xây dựng tập thể lớp học thân thiện, gắn bó.
Tập thể lớp thân thiện là tập thể lớp có môi trường lớp học thân thiện, tôn trọng, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm, biết cách giải quyết xung đột không bằng bạo lực.
Vai trò của GV: Định hướng, dẫn dắt, giải quyết tốt mối quan hệ trong lớp, xây dựng môi trường lớp học thân thiện, lắng nghe và tôn trọng ý kiến HS; là tấm gương sáng cho HS noi theo.
Vai trò HS: Tự giác xây dựng và thực hiện nội quy; thương yêu, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau; có trách nhiệm với hành vi của mình; biết cách giải quyết các xung đột, có ý thức hợp tác nhóm; biết chia sẻ, giúp đỡ bạn bè; biết thực hiện quyền và bổn phận của mình.
Người biên tập
Skkn Phát Huy Tính Tự Giác, Tích Cực Của Học Sinh Thông Qua Học Môn Thể Thao Tự Chọn Bóng Chuyền
Trang A. PHẦN MỞ ĐẦU 1 I. Lý do chọn đề tài 1 II. Mục đích nghiên cứu 1 III. Đối tượng nghiên cứu 2 B. PHẦN NỘI DUNG 3 I. Cơ sở lí thuyết 3 II. Cơ sở thực tiễn 3 III. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 3 IV. Các giải pháp tổ chức thực hiện 4 C. PHẦN KẾT LUẬN 17 I. Kết luận 17 II. Kiến nghị, đề xuất 17 TÀI LIỆU THAM KHẢO 19 A. PHẦN MỞ ĐẦU I.Lí do chọn đề tài: Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học, theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong các hoạt động và học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại. Vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với người giáo viên là phải đổi mới phương pháp dạy học: Giáo viên là người hướng dẫn chỉ đạo điều khiển học sinh đi tìm kiến thức mới, vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn. Chính vì vậy học sinh phải là người tự giác, chủ động, tìm tòi, phát hiện các kiến thức mới một cách linh hoạt, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống thông qua sự hướng dẫn, định hướng của giáo viên trong tiết dạy. Do vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học sao cho phù hợp với thực tiễn và phát huy được sự yêu thích môn học đối với học sinh là một vấn đề rất quan trọng, đó cũng là một nghệ thuật sư phạm của người giáo viên. Giáo dục thể chất trong trường phổ thông là một bộ phận của nền giáo dục, là một nhu cầu tất yếu khách quan của sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung và công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa nói riêng. Giáo dục thể chất còn mang lại cho thế hệ trẻ cuộc sống vui tươi, lành mạnh và tác động mạnh mẽ đến các mặt giáo dục khác như giáo dục đạo đức, trí tuệ, lao động, thẩm mĩ. Giảng dạy và học tập môn thể dục trong nhà trường trung học phổ thông là một môn học quan trọng xuyên xuốt chương trình, đóng góp vào sự phát triển thể lực chung, phát triển các tố chất về sức nhanh, sức mạnh, sức bền, độ linh hoạt và khéo léo. Do đó nghiên cứu thực trạng và tìm ra phương pháp phù hợp để nâng cao chất lượng Dạy và Học, thực hiện tốt vai trò nhiệm vụ của môn học là vấn đề cần thiết cho sự phát triển về thể lực và trí tuệ học sinh. [3] Với sự cấp thiết như vậy, tôi chọn đề tài :“Phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh thông qua học môn thể thao tự chọn Bóng Chuyền”. Nhằm mục đích nâng cao chất lượng Dạy – Học, thúc đẩy phong trào rèn luyện thân thể học sinh trong nhà trường, phong trào bóng chuyền của địa phương. Đề tài này nhằm giúp học sinh khắc sâu những kiến thức lí thuyết, có một hệ thống phương pháp luyện tập, giúp các em có thể nắm được phương thức luyện tập từ đó chủ động vận dụng các phương pháp này trong thi đấu. II.Mục đích nghiên cứu. Để xây dựng kỹ năng vận động được tiến hành không chỉ bằng thị phạm động tác, mà bằng cả lời nói và tư duy, tức là phải sử dụng các phương pháp dạy học thể dục trong việc xây dựng kỹ năng vận động cho người luyện tập thể dục thể thao mà đối tượng ở đây là học sinh trung học phổ thông, và người huấn luyện hướng dẫn đó là giáo viên dạy thể dục thể thao. Trong thời gian của một tiết dạy chỉ 45 phút mà có đến hai hay ba nội dung học khác nhau đan xen vào, giáo viên phải làm thế nào để truyền tải kiến thức giúp học sinh nhanh chóng hình thành kỹ năng vận động, nghĩa là vừa xây dựng nhận thức cho các em về kỹ thuật động tác vừa phải đảm bảo đủ lượng vận động cần thiết cho các em trong một tiết học, hay nói cách khác trong một thời gian cực ngắn người giáo viên phải vừa giúp các em nắm được yếu lĩnh kỹ thuật động tác, vừa phải hướng dẫn cho các em thực hiện động tác. Muốn đạt được điều này, theo tôi, người thầy phải tăng cường sử dụng các phương pháp và các hình thức tổ chức như phương pháp sử dụng lời nói, nhóm phương pháp trực quan, nhóm phương pháp luyện tập. Hay phải tăng cường làm mẫu thị phạm kết hợp với sử dụng lời nói giảng giải ngắn gọn, mấu chốt, đủ ý. Hay nói cách khác là vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực như: Dạy học vấn đáp; Dạy và học phát hiện giải quyết vấn đề; Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ vào giảng dạy để giúp học sinh hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động. Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên còn dùng các động tác bổ trợ là những động tác đơn giản hơn hoặc có kết cấu gần giống nhưng dùng sức nhẹ hơn động tác chính. Ngoài ra chúng ta thường sử dụng thêm các phương pháp trò chơi, thi đấu và tổng hợp,vào giáo dục thể chất. III. Đối tượng nghiên cứu: – Học sinh các lớp 10C1, 10C2, 10C3, 10C4 trường THPT Thạch Thành 3. IV.Phương pháp nghiên cứu. – Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu. – Phương pháp quan sát và thực nghiệm sư phạm. – Phương pháp điều tra sư phạm, phương pháp toán học xử lí số liệu. – Khảo sát kỹ thuật và số lần thực hiện được của học sinh thông qua kiểm tra chuyền bóng cao tay bằng hai tay (trước mặt), chuyền bóng thấp tay, phát bóng thấp tay của các em học sinh mới vào lớp 10. B. PHẦN NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận: Để đất nước ta có nguồn lực lượng lao động đảm bảo sức khoẻ, đạt chuẩn về trình độ kiến thức, có kĩ thuật tay nghề cao, đó là mục tiêu của sự nghiệp giáo dục hiện nay và giáo dục thể chất nói riêng để xây dựng con người phát triển một cách cân đối và toàn diện, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Vì vậy, muốn đạt được mục đích của giáo dục thể chất thì cần phải làm cho môn học thể dục trở thành môn học yêu thích của học sinh. Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy giáo dục thể chất còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn về trang thiết bị dạy học và sân bãi học tập, một số thiết bị dạy học thì đã cũ kỉ, hư hỏng, giáo viên chủ yếu giảng dạy trong điều kiện thiếu thốn và học sinh tự trang bị cho mình những thiết bị học tập, những khó khăn, thiếu thốn đó chủ yếu ở các trường xa trung tâm và các trường ở miền núi càng khó khăn hơn so với các trường ở thành phố. Bên cạch đó, một tiết học thể dục thường đan xen hai hay ba nội dung học tập lại càng thêm khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động ở học sinh và đa phần học sinh còn xem nhẹ môn học thể dục và coi thể dục là môn học phụ, còn e ngại và lười biếng trong tập luyện chính vì thế chất lượng của giáo dục thể chất vẫn chưa cao, hiệu quả còn tương đối thấp so với một số môn văn hoá khác. [3] II. Cơ sở thực tiễn: Trường THPT Thạch Thành 3 đóng trên địa bàn nông thôn miền núi với đa số học sinh là con em dân tộc, nhân dân chủ yếu sống bằng nông nghiệp, cơ sở vật chất, sân bãi phục vụ cho giảng dạy và học tập trong trường đang còn thiếu thốn. Từ thực trạng đó việc dạy và học môn thể dục trở nên rời rạc không liên tục làm hạn chế sự hình thành kỹ năng vận động của học sinh. Nội dung thể thao tự chọn bóng chuyền các em học sinh cấp dưới chỉ mới được tiếp xúc ít, chưa nắm được các kỹ thuật cơ bản. Nên khi lên lớp trên các em đang còn bỡ ngỡ và khi học lại gặp điều kiện thời tiết không thuận lợi tập luyện không được thường xuyên, điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị dạy và học không đảm bảo sẽ tạo cho các em uể oải, mất hứng thú trong học tập, không chú trọng và hình thành được kỹ năng, kỹ xảo vận động dẫn đến kỹ thuật và số lần thực hiện động tác cũng như thành tích thấp không ổn định. III. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu. 1. Thực trạng. – Hiện nay do yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục và yêu cầu học tập mà đòi hỏi học sinh phải có thể lực để tiếp thu tốt các bài học trên lớp và nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu. – Để giờ dạy đạt hiểu quả cao, sinh động, cuốn hút học sinh, giáo viên cần nắm vững về tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh. – Cần tìm hiểu rõ thể trạng của từng học sinh để đưa ra những phương pháp luyện tập phù hợp cho học sinh đạt kết quả tốt nhất. – Học sinh THPT đang ở thời kì phát triển với tốc độ rất nhanh cả về hình thái, tố chất thể lực cũng như chức phận của các hệ cơ quan trong cơ thể. Lúc này dinh dưỡng, thể dục thể thao có tác dụng cực kỳ quan trọng đến việc phát triển toàn diện cơ thể của các em 2. Kết quả – Hiệu quả của thực trạng trên. Qua thời gian công tác tại trường THPT Thạch Thành 3 tôi nhận thấy học sinh nhận thức chưa sâu sắc về việc rèn luyện thể chất, chưa phát huy hết các tố chất vận động của bản thân. – Học sinh chưa thực hiện tốt nhiệm vụ của người học. ý thức tổ chức kỹ luật chưa cao, chưa nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của môn học với sự phát triển của trí tuệ cho bản thân, coi môn học là môn phụ, do đó luyện tập với tinh thần chưa cao, thực hiện chưa tốt các yêu cầu của giáo viên đưa ra, học có tính chất đối phó. – Các nhiệm vụ giáo dục thể chất trong nhà trường chưa thực sự được quan tâm đầu tư, một số nội dung gặp khó khăn về dụng cụ, trang thiết bị dạy học. Ở lứa tuổi này cơ thể các em yêu cần một lượng vận động thích ứng, một yêu cầu mang tính chất sinh học: bởi vì vận động sẽ giúp cho quá trình trao đổi chất trong đó đặc biệt là quá trình đồng hóa diễn ra trong cơ thể nhanh hơn, mạnh hơn, mà đó chính là cơ sở để các em phát triển. – Về trang thiết bị dụng cụ dạy học chưa đáp ứng được yêu cầu của bộ môn, một số trang thiết bị không đảm bảo chất lượng và số lượng. Do đó các hoạt động thể thao và trò chơi bị hạn chế, cho nên giờ học trở nên buồn tẻ và nhàm chán. – Một số nội dung học được lặp đi lặp lại nhiều lần ở các khối học dẫn đến học sinh không luyện tập tích cực để nâng cao kỹ thuật và thành tích mà chỉ xem đó là đã biết, đã được học. – Học sinh chưa chịu khó tự học, tự tập luyện thêm ở nhà, cha mẹ học sinh chưa quan tâm sát xao đến việc học tập, rèn luyện của các em. – Môn học không đánh giá bằng điểm số mà chỉ đánh giá bằng nhận xét IV. Các giải pháp tổ chức thực hiện. Trong chương trình dạy học ở trường THPT đã đưa một số môn thể thao tự chọn vào quá trình giảng dạy và học tập của học sinh một phần dành cho việc bám sát, nâng cao kiến thức môn học, phần khác dành cho việc cung cấp một số nội dung mới theo yêu cầu của người học. Dạy môn thể thao tự chọn cần được nghiên cứu sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương và điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của nhà trường để triển khai hợp lý cùng với các hình thức dạy học khác được quy định trong trường học. Mục đích của việc giáo dục thể chất trong nhà trường là bổ xung và khai thác sâu nội dung chương trình bắt buộc của bộ GD – ĐT ban hành. Tạo điều kiện cho những học sinh có nhu cầu tập luyện phát triển năng khiếu về TDTT. Trên thực tế có rất nhiều các môn thể thao khác nhau nhưng do điều kiện cở sở vật chất của nhà trường còn hạn chế, không thể đáp ứng được các yêu cầu và nguyện vọng của học sinh nên tôi đã xây dựng kế hoạch và chọn môn thể thao tự chọn là: Bóng Chuyền. Khảo sát kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt, chuyền bóng thấp tay, và phát bóng thấp tay chính diện thông qua kiểm tra các em học sinh mới vào lớp 10 Trường THPT Thạch Thành 3 chưa áp dụng phương pháp gồm 4 lớp: 10C1, 10C2, 10C3, 10C4 Kết quả đạt như sau: v Kĩ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt Lớp Điểm 10C1 (42 HS) 10 C2 (42 HS) 10C3 (41 HS) 10C4 (42 HS) Đạt 10 23,8% 8 19,04% 9 21,95% 15 35,71% Chưa Đạt 32 76,2% 34 80,95% 32 78,04% 27 64,28% vKĩ thuật chuyền bóng thấp tay Lớp Điểm 10C1 (42 HS) 10C2 (42 HS) 10C3 (41 HS) 10C4 (42 HS) Đạt 15 35,72% 14 33,34% 16 39,03% 17 40,47% Chưa Đạt 27 64,28% 28 66,66% 25 60,97% 25 59,53% vKĩ thuật phát bóng thấp tay Lớp Điểm 10C1 (42 HS) 10C2 (42 HS) 10C3 (41 HS) 10C4 (42 HS) Đạt 17 40,48% 18 42,85% 20 48,78% 23 54,76% Chưa Đạt 25 59,52% 24 57,15% 21 51,22% 19 45,24% Ghi chú: Điểm đạt (Đ) thực hiện tương đối đúng KT động tác. Điểm chưa đạt (CĐ) thực hiện chưa đúng KT động tác, hoặc chưa thực hiện được động tác v Nhận xét: Qua kết quả khảo sát ban đầu nhìn chung các em học sinh ở các lớp trên đạt kết quả rất thấp. Về kỹ thuật chỉ được một số em thực hiện tương đối tốt dẫn đến kết quả của những em đó có nổi trội hơn các em khác. Còn hầu hết các em khác do kỹ thuật chưa có nên kết quả không cao. Qua đó tôi nắm được các em đang còn yếu ở mặt nào, những kết quả trên là cơ sở để tôi đi sâu vào nghiên cứu “Phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh thông qua học môn thể thao tự chọn Bóng Chuyền” để có thể giảng dạy môn Bóng chuyền tốt hơn giúp cho học sinh tập luyện tiến bộ và ngày càng yêu thích môn Bóng chuyền nhằm góp phần làm tốt hơn nữa trong công tác rèn luyện sức khỏe cho học sinh, từ đó các em chủ động hơn, tích cực hơn, hứng thú hơn trong học tập. 1. Phân loại đối tượng tập luyện. Căn cứ vào kết quả điều tra, qua theo dõi trực tiếp học sinh tập luyện. Tôi phân loại đối tượng tập luyện như sau: – Đối tượng học sinh đã được tiếp xúc với bóng chuyền ở địa bàn sinh sống. – Đối tượng học sinh chưa được tiếp xúc với bóng chuyền bao giờ. – Đối tượng học sinh có chiều cao và thể lực tốt. – Đối tượng học sinh thấp nhưng có sức bật tốt, phản xạ nhanh. 2. Các bài tập về tư thế chuẩn bị và di chuyển. Tư thế chuẩn bị và di chuyển là những kỹ thuật cơ bản là cơ sở để thực hiện tốt các kỹ thuật đánh bóng trong tập luyện và thi đấu. + Tư thế chuẩn bị: Là tư thế đứng của đấu thủ trên sân thuận lợi, hợp lý nhất để quan sát, phán đoán tốt, di động kịp thời theo mọi hướng tới các vị trí cần thiết trên sân. Đứng hai chân rộng bằng vai hoặc đứng chân trước chan sau, chân hơi kiễng, hai đầu gối hướng vào trong khuỵu gối vừa phải hợp lý. Thân người gập, hai tay co tự nhiên cẳng tay gần như song song với đùi, mắt theo dõi bóng và xác định điểm rơi của bóng, từ đó xác định nhiệm vụ trong những tình huống cụ thể. + Di chuyển: Là phương pháp của đấu thủ rời từ vị trí này đến vị trí khác. Là khâu trung gian nối giữa tư thế chuẩn bị và tư thế đánh bóng. Có các động tác di chuyển như sau: – Di chuyển bước thường. – Di chuyển bước lướt. – Di chuyển bước nhảy. – Di chuyển bước chéo. – Di chuyển bước xoạc. – Động tác lăn ngã, bay cá nhảy đỡ bóng. Các bài tập này được thực hiện lặp lại nhiều lần vào đầu các buổi tập. Vận dụng một cách linh hoạt, bài bản, đúng phương pháp khoa học. [1] 3. Tập các kỹ thuật cơ bản về Bóng Chuyền. a) Kỹ thuật chuyền bóng cao tay. Là kỹ thuật chủ yếu dùng những ngón tay để chuyền bóng đi. Có rất nhiều kỹ thuật chuyền bóng cao tay như: + Chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt. + Chuyền lật sau đầu. + Nhảy chuyền bóng. + Ngã chuyền bóng và chuyền bước 2. Nhưng đối với học sinh THPT kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt được sử dụng chủ yếu vì một trong những kỹ thuật cơ bản nhất của bóng chuyền được sử dụng nhiều trong thi đấu. *Kỹ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt: + Tư thế chuẩn bị: Sau khi xác định được vị trí, điểm rơi của bóng cũng như đặc điểm tính năng của nó, người chuyền nhanh chóng ổn định tư thế chuyền bóng. Người chuyền ở tư thế trung bình, hai chân rộng bằng vai hoặc chân trước chân sau, hơi khuỵu gối, thân trên thẳng, hóp bụng, mắt quan sát bóng, hai tay dơ cao trên đầu trước mặt ở tầm thích hợp để chuyền bóng. + Động tác chuyền bóng: Khi chuyền bóng, hai chân đạp đất, duỗi khớp gối để tạo lực, trọng tâm cơ thể được nâng lên cao. Lúc này duỗi các khớp khuỷu tay, gập cổ tay nhanh các ngón tay bật đẩy bóng đi. Trọng lượng cơ thể dồn vào chân trước. Quá trình chuyển động của cơ thể để chuyền bóng là sự phối hợp nhịp nhàng, liên tục giữa các bộ phận cơ thể có tính kế tiếp và liên tục. Hình tay khi chuyền là một hình túi bao quanh ở phía sau và dưới bóng, các ngón tay dàn tương đối đều trên bề mặt của bóng. Trong một bàn tay điểm tiếp xúc giữa các ngón tay và bóng không giống nhau: – Ngón cái tiếp xúc bằng bề mặt phần trong đốt 2 và 1. – Ngón trỏ tiếp xúc nhiều nhất, gần như hết bề mặt phần trong của 3 đốt và phần trai tay. – Ngón giữa tiếp xúc bằng bề mặt phần trong của hai đốt và một phần của đốt 1. – Ngón đeo nhẫn tiếp xúc bằng bề mặt phần trong của đốt 3 và một phần của đốt 2. – Ngón út tiếp xúc một phần nhỏ bề mặt trong của đốt 3. Khi chuyền bóng chân đạp đất, duỗi các khớp để tạo lực đồng thời trọng tâm cơ thể cũng nâng lên, gập cổ tay nhanh, các ngón tay bật đẩy tích cực vào bóng, trọng tâm cơ thể dồn vào chân trước. Ví dụ: Tập chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt. Giáo viên đưa ra những câu hỏi về giai đoạn chuẩn bị, giai đoạn chuyền bóng (vị trí các ngón tay tiếp xúc bóng, tư thế thân người, trọng tâm cơ thể), giai đoạn kết thúc. Học sinh ghi vào vở học tập những kiến thức đã tiếp thu được, sau đó giáo viên đưa ra những bài tập thực hành cho cá nhân, bài tập cho nhóm và bài tập cho cả lớp. b) Kỹ thuật đệm bóng. Là kỹ thuật cơ bản của bóng chuyền. Trong thi đấu đệm bóng chủ yếu để phòng thủ. Đệm bóng có các kỹ thuật cơ bản sau: – Đệm bóng bằng hai tay. – Đệm bóng bằng một tay. – Đệm lật qua đầu. – Lăn ngã cứu bóng. Đối với học sinh THPT kỹ thuật đệm bóng bằng hai tay được sử dụng chủ yếu. *Kỹ thuật đệm bóng bằng hai tay: + Tư thế chuẩn bị: Đứng ở tư thế trung bình thấp, hai chân rộng bằng vai hoặc chân trước chân sau, hai tay co tự nhiên ở bên sườn, mắt quan sát bóng, thân người hơi gập. Khi xác định được điểm rơi của bóng và tầm thích hợp thì đưa tay ra đón bóng. Hai tay duỗi thẳng, hai bàn tay đặt chéo nhau và nắm lại, bàn tay nọ bọc lấy bàn tay kia, hai ngón cái song song kề sát nhau. + Động tác đánh bóng: Bóng đến ngang hông, cách thân người khoảng gần một cánh tay thì thực hiện đệm bóng. Lúc này chân đạp đất, duỗi khớp gối đưa trọng tâm cơ thể lên cao. Hai tay chuyển động từ dưới lên để đánh bóng, khi chạm bóng thì gập cổ tay xuống dưới làm căng các nhóm cơ cẳng tay. Yêu cầu hai tay thẳng, chắc, bằng, thân người hơi lao về trước. + Kết thúc: Khi bóng rời khỏi tay, hai chân tiếp tục duỗi, tay nâng theo hướng bóng đi một đoạn ngắn rồi nhanh chóng trở về tư thế chuẩn bị để tiếp tục thực hiện động tác tiếp theo. [1] Ví dụ: Tập đệm bóng bằng hai tay. Sau khi giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc và nghiên cứu về kỹ thuật đệm bóng bằng hai tay. Học sinh ghi vào vở học tập những kiến thức đã tiếp thu được. Sau đó giáo viên đưa ra các bài tập cho học sinh tập luyện: – Tập mô phỏng tư thế đệm bóng. – Tại chỗ thực hiện kỹ thuật đệm bóng( không có bóng) – Di chuyển sang trái, sang phải đệm bóng( không có bóng) – Di chuyển tiến, lùi đệm bóng( không có bóng) – Một bạn tung bạn kia đệm trả lại – Hai bạn cùng di chuyển đệm bóng cho nhau – Một bạn gõ bóng nhẹ bạn kia đệm trả lại, sau đó đỏi vị trí cho nhau. – Tập trong sân bóng chuyền, bạn ở vị trí số 3 tung bóng đến các vị trí số 1, số 5, số 6. Bóng đến vị trí nào thì người đó đệm bóng trả lại vị trí số 3 (hình vẽ). 3 6 5 1 Sau khi học sinh tập những bài tập trên, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tập luyện thêm ở nhà để hoàn thành tốt mục tiêu của bài tập. Đến buổi tập sau trước khi học bài mới giáo viên kiểm tra một số học sinh kiến thức về những kỹ thuật đã học để nắm bắt được mức độ tiếp thu của học sinh. Kỹ thuật phát bóng: Phát bóng không chỉ đơn thuần là đưa bóng sang sân đối phương, mà còn mang tính tấn công, phát bóng có uy lực sẽ gây khó khăn cho đối phương hoặc dành điểm trực tiếp. Phát bóng có các kỹ thuật cơ bản sau: – Phát bóng thấp tay chính diện. – Phát bóng thấp tay nghiêng mình. – Phát bóng cao tay chính diện. – Phát bóng cao tay nghiêng mình. Đối với học sinh lớp 8 chủ yếu học kỹ thuật phát bóng thấp tay nghiêng mình. * Kỹ thuật phát bóng thấp tay nghiêng mình : + Tư thế chuẩn bị: Người phát bóng đứng sau đường biên ngang, hai chân rộng bằng vai, vai hướng về lưới, hai gối hơi khuỵu, trọng tâm hơi thấp và dồn vào hai chân. Tay cầm bóng co ở khuỷ
Một Số Phương Pháp Dạy Học Nhằm Phát Huy Tính Tích Cực, Chủ Động, Sáng Tạo Của Học Sinh Thcs Trong Việc Học Phân Môn Vẽ Tranh
Môn mỹ thuật là một môn học có vai trò quan trọng trong chương trình giáo dục THCS. Với môn học học sinh biết cách cảm nhận cái đẹp, yêu cái đẹp từ đó biết cách rèn luyện đôi bàn tay trí óc của mình để tạo ra cái đẹp qua việc phát huy óc sáng tạo, tính độc lập của mình. Môn Mỹ thuật đã góp phần cùng với các môn học khác giáo dục học sinh phát triển toàn diện về Đức – Trí – Thể – Mỹ.
Là môn học nghệ thuật nên Mĩ thuật đòi hỏi ở HS ý thức làm việc cá nhân , độc lập, sáng tạo. “Mỗi HS sẽ là một nghệ sĩ nếu như GV biết khai thác, động viên và phát huy tính sáng tạo riêng của các em”.Đó cũng là yêu cầu khi vận dụng PPDH theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS. Việc này có ý nghĩa quyết định cho nhận thức thẩm mĩ nói chung và kết quả bài vẽ nói riêng .
Thực tế, học sinh rất ham thích học vẽ. Nếu như chúng ta xây dựng cho các em có ý thức học tập tốt tạo ra không khí thoải mái khi học thì sẽ đạt được hiệu quả tốt nhất.
Để khơi dậy cho học sinh khả năng trong giờ học vẽ tranh đề tài đòi hỏi người giáo viên cần phải thực sự say mê giảng dạy và tạo được cho học sinh sự lôi cuốn, đam mê trong giờ học mỹ thuật mà cụ thể là việc tạo ra phương pháp giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của bản thân.Đó là lý do tôi nghiên cứu đề tài: “Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong việc học phân môn vẽ tranh – môn Mĩ thuật”.
1.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Những phương pháp dạy học nhằm tích cực hóa hoạt động của học sinh THCS trong phân môn vẽ tranh.
1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu áp dụng một số phương pháp giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh khối 6,7 trường THCS Trần Hưng Đạo trong phân môn vẽ tranh.
1.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
HS THCS Trần Hưng Đạo khối 6,7 năm học 2010-2011, 2011-2012, năm học 2012-2013.
Phân môn: Vẽ tranh
1.5. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp tìm hiểu.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp thử nghiệm.
Phương pháp tổng hợp.
2.3.6. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề: Bản chất của dạy học nêu vấn đề là tạo ra các tình huống có vấn đề để HS tìm ra cách giải quyết khác nhau, qua đó phát triển tư duy logic, tư duy sáng tạo, hình thành kĩ năng giải quyết.Giúp HS có khả năng tự giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. 2.3.6.1. Mục tiêu Bằng cách nêu vấn đề sẽ kích thích tính tò mò, ham hiểu biết giúp HS phát huy tốt hơn trong việc đổi mới và khám phá tìm kiếm các cách giải quyết mới mang tính sáng tạo. Đặc trưng của PPDH nêu và giải quyết vấn đề là: + Nêu vấn đề (tạo tình huống có vấn đề): được tạo bởi mâu thuẫn giữa điều HS đã biết với điều chưa biết, từ đó kích thích tính tò mò, ham hiểu biết phát huy tốt hơn trong việc đổi mới và khám phá tìm kiếm các cách giải quyết mới mang tính sáng tạo. + Phát biểu vấn đề + Giải quyết vấn đề + Kết luận: Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu. 2.3.6.2. Giải pháp thực hiện Với môn Mĩ thuật, ngay trong các bài lí thuyết cũng như thực hành GV có thể nêu vấn đề để HS tự tìm cách giải quyết, qua đó phát triển tư duy phân tích, tổng hợp và tư duy sáng tạo. Vấn đề đặt ra phải phù hợp với nội dung từng bài, từng địa phương và tùy thuộc đối tượng HS. VD: GV hỏi cả lớp: Có câu hát rằng ” Màu áo chú bộ đội mới trông là màu xanh, như màu lá trên cành”,vậy có phải trang phục của chú bộ đội đều có màu xanh lá?( đề tài bộ đội). * Tóm lại: Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề thường được sử dụng rộng rãi cho tất cả các môn học, đặc biệt với môn mĩ thuật là môn nghệ thuật, đôi khi vấn đề cần khai thác nằm ngoài những công thức, những quy định bắt buộc. Vì vậy PP này sử dụng rất phù hợp bởi qua việc nêu vấn đề có thể thu hút sự tập trung của HS trong lớp học và phát huy được sự chủ động, sáng tạo của các em. GV cần làm cho học sinh rõ mục đích, trọng tâm, và mức độ khác nhau của các bài tập. Dựa vào trình tự nội dung, vào trình độ học sinh, giáo viên ra các bài tập cho phù hợp, có thể là đơn lẻ, nhằm củng cố, phát triển một đơn vị kiến thức nhỏ.VD: sắp xếp mảng chính, mảng phụ của đề tài mẹ của em. Hướng dẫn HS làm bài,GVcần tìm ra những thiếu sót về bố cục, hình vẽ, màu sắc, gợi ý cho các em suy nghĩ và tìm ra cách sửa chữa, điều chỉnh theo khả năng, phù hợp với từng dạng bài của các em.Cần có kế hoạch về PP đối với từng đối tượng HS, mỗi đối tượng HS lại có gợi ý riêng cách bổ sung khác chúng tôi với HS kém thì yêu cầu vẽ được hoàn thành bài tập, đối với HS khá thì bổ sung bài vẽ đầy đủ, hợp lý hơn; với HS giỏi thì gợi ý , động viên các em suy nghĩ, tìm tòi thêm ý tưởng mới. 2.3.7.1. Mục tiêu: Trong quá trình học sinh làm bài giáo viên hướng dẫn về bố cục, vẽ hình và vẽ màu. Kiểm tra và gợi ý để các đối tượng học sinh phát huy hết khả năng của mình Thông qua thực hành, học sinh được củng cố về kiến thức lý thuyết, biết vận dụng lý thuyết vào thực thành để tạo nên một bài vẽ có hiệu quả. 2.3.7.2. Giải pháp thực hiện: – Giáo viên giúp học sinh nhớ lại những gì đã nghe ở phần lý thuyết rồi tự tìm cách giải quyết bài tập Học sinh trong giờ luyện tập vẽ tranh * Tóm lại: Đây là một trong những phương pháp đặc thù của môn Mĩ thuật và thường mang lại kết quả khả quan cho bài dạy. GV làm việc với từng HS, góp ý, khích lệ để mỗi em hoàn thành bài vẽ theo khả năng của mình. 2.3.8. Phương pháp dạy học tích hợp: Phương pháp này là sự phối hợp, mối liên hệ giữa nhiều môn học hay giữa nhiều phân môn của từng bộ môn.Trong tích hợp có tích hợp dọc và tích hợp ngang.Tích hợp dọc theo các cấp học từ tiểu học đến THPT và cao hơn nữa, theo vòng tròn đồng phân, cấp học cao yêu cầu kiến thức sâu hơn, cao hơn, mỗi cấp học hoàn thiện một đơn vị kiến thức.Tích hợp ngang là sự liên hệ giữa các phân môn trong cùng bộ môn, các môn học trong cùng một lớp học, cấp học. 2.3.8.1. Mục tiêu: – Giúp HS có sự liên hệ giữa các môn học, phân môntừ đó đưa những kiến thức đã học vào nội dung bài. – Liên hệ thực tiễn địa phương, trường, lớp, gia đình, bản thân để từ đó tác động đến thái độ học tập, tâm tư tình cảm .Góp phần hình thành nhân cách, ý thức thẩm mĩ cho các em. 2.3.8.2. Giải pháp thực hiện: – GV cần chọn lọc những kiến thức có thể tích hợp phù hợp nhất với bài học và đối tượng học sinh. – GV có thể sử dụng kết hợp với đồ dùng trực quan, câu hỏi gợi mở để giúp HS nhớ lại những kiến thức đã được học, khéo léo lồng ghép nội dung vào bài học Mĩ thuật.VD: Ở bài đề tài Ngày Tết và mùa xuân, tích hợp với nội dung “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ta có thể liên hệ câu nói nổi tiếng của bác: “Mùa xuân là tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân”. Vì thế, mùa xuân ngoài các hoạt động như chúng ta vẫn thường nói đến thì người dân Việt Nam ta còn trồng cây vào đầu năm mới. * Tóm lại: Phương pháp dạy học tích hợp là phương pháp hoàn toàn đổi mới theo hướng lấy HS làm trung tâm, mang tích chất bắt buộc nhằm hình thành phát triển thói quen và khả năng tự học, tìm tòi nghiên cứu .Qua đó số lượng kiến thức sẽ được nâng dần lên ở những bài tiếp theo và những lớp trên. Từ việc HS đều được tham gia học tập một cách tự giác bằng khả năng của mình. Phương pháp học tập này xây dựng cho học sinh tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng với công việc chung , đồng thời hình thành ở học sinh phương pháp làm việc khoa học – tự lập kế hoạch và làm việc theo kế hoạch. 2.3.9.1. Mục tiêu – Giúp học sinh nắm được hình thức hoạt động nhóm – HS được tham gia vào hoạt động nhóm, rèn luyện kĩ năng triển khai hoạt động nhóm nhanh và có hiệu quả. – Qua hoạt động nhóm giáo dục cho học sinh có tinh thần tập thể, biết phối hợp với mọi người trong các công việc sau này. 2.3.9.2. Giải pháp thực hiện Phương pháp học tập này được tiến hành dưới nhiều hình thức tùy thuộc vào bài tập là câu hỏi hay bài thực hành: Vẽ tranh theo nhóm cần chia nhóm nhỏ khoảng 3- 4 HS .Vừa tận dụng đồ dùng học tập mà các em có như màu sắcđể những em HS nghèo không có điều kiện mua màu, nhiều màu có thể dùng chung với các bạn khác.Từ đó cũng hình thành nên lòng yêu thương, tình cảm đoàn kết,c hia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau. – Sau khi HS hoàn thành bài tập nhóm trưởng thay mặt nhóm trình bày.Các nhóm hoặc cá nhân khác góp ý, bổ sung, tranh luận đánh giá. Một hình thức học vẽ tranh theo nhóm * Tóm lại: Hoạt động nhóm sẽ giúp cách em hình thành tích tập thể, làm việc khoa học, chúng tôi đó các em sẽ phát huy tính tích cực,chủ động và chia sẻ, học tập lẫn nhau.Hoạt động nhóm cũng tạo không khí vui tươi, sôi nổi, đoàn kết và thi đua học hỏi lẫn nhau 2.3.10. Phương pháp sử dụng trò chơi : Phương pháp làm việc theo hình thức tổ chức trò chơi là tạo điều kiện cho mọi học sinh đều được tham gia vào quá trình học tập một cách tự giác bằng khả năng của chính mình. Phương pháp học tập này sẽ được thông qua hoặc diễn ra theo nội dung của trò chơi trong học tập nhằm xây dựng cho học sinh tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng với công việc chung của tập thể. Đồng thời hình thành cho học sinh phương pháp làm việc khoa học và có kế hoạch. Đúng như nhận định của nhà giáo dục hàng đầu thế giới Arngoroki: “Trò chơi là con đường để trẻ em nhận thức thế giới, là nơi chúng đang sống và là cái chúng nhận thấy cần phải thay đổi”. Chơi trò chơi là một hoạt động mang tính con người nhất. Đối với bộ môn mỹ thuật, phương pháp dạy học tổ chức trò chơi giúp ích rất nhiều và thường được thực hiện và vận dụng trong các trò chơi ghép hình, vẽ tranh nhanh, vẽ màuHọc sinh sẽ có điều kiện để bộc lộ ý kiến riêng của mình, tăng khả năng hợp tác và năng lực làm việc cá nhân. 2.3.10.1. Mục tiêu – Giúp học sinh phát triển tâm lý, xây dựng thái độ đạo đức, có ý thức trách nhiệm hơn và biết tôn trọng kỷ luật. – Giúp trẻ nhận thức nhanh và khắc sâu hơn, tạo tâm lý học tập thoải mái. Điều này sẽ kích thích cho các em bộc lộ năng lực, sở trường, ý thích một cách tự nhiên và vận dụng những kỹ năng đó vào học tập. – Qua trò chơi học sinh sẽ rèn luyện được khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp trong tình huống. – Qua trò chơi học sinh có cơ hội để thể nghiệm những thái độ, hành vi. Chính sự thể nghiệm này sẽ hình thành được ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cực, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống.- Qua trò chơi học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kỹ năng nhận xét, đánh giá hành vi. – Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. – Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên với học sinh. 2.3.10.2. Giải pháp thực hiện: Điều đầu tiên khi tổ chức thực hiện một trò chơi nào đó thì cần xác định nội dung học tập mà qua trò chơi học sinh cần nắm bắt là gì ? Dựa vào điều đó, người giáo viên còn có cơ sở để lựa chọn trò chơi phù hợp với nội dung và mục đích học tập. Sau đó cần lựa chọn trò chơi phù hợp và chia nhóm chơi tùy theo đặc điểm của từng lớp, từng địa điểm và làm sao cho phù hợp với từng đối tượng chơi.Giáo viên có thể phân công vai chơi hoặc để đội tự phân công nhiệm vụ chơi. Giáo viên hướng dẫn cách chơi, luật chơi và quy định thời gian mỗi đội thực hiện trò chơi đó và nếu cần thiết có thể cho các đội chơi thử trước. Trong quá trình các đội chơi thì ở ngoài các thành viên khác trong đội có thể cổ vũ bằng hình thức là hát một bài vui chẳng hạn, như vậy sẽ tạo được không khí vui vẻ, thoải mái, kich thích tinh thần chơi, khuyến khích trẻ đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và hoàn thành nhiệm vụ học tập cho học sinh.Có thể nói vui rằng : “Hoạt động làm cho lớp ồn ào nhưng là một sự ồn ào có hiệu quả”. Sau khi các nhóm thực hiện nhiệm vụ học tập thì người giáo viên có trách nhiệm tổng kết và đánh giá kết quả từng đội chơi bám vào nội dung học tập đã được xác định từ trước. Và trình tự các bước khi tổ chức trò chơi trong học tập như sau : – Xác định mục đích, nội dung, nhiệm vụ học tập. – Chọn trò chơi và chia nhóm chơi. – Hướng dẫn cách chơi, nêu luật chơi. – Quy định thời gian thực hiện trò chơi học tập. – Tiến hành chơi. – Tổng kết phần chơi : GV nhận xét, đánh giá kết quả và đưa ra kết luận bám vào nội dung học tập. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp tổ chức trò chơi thành công và đạt được hiệu quả giáo dục như mong đợi thì người giáo viên cần hạn chế và tránh gian lận trong khi chơi và đặc biệt không nên để tình trạng các em ganh đua nhau giành phần thắng thua trong khi chơi. VD: + Có thể cho các nhóm vẽ màu những bức tranh chưa được vẽ màu.Nhóm nào vẽ nhanh, đẹp nhất sẽ thắng. + Hay GV có thể chuẩn bị 3,4 bức tranh đẹp đã được cắt ra thành nhiều mảnh, mỗi nhóm một bức, sau đó lên lớp yêu cầu học sinh ghép hình để hoàn thiện bức tranh cho đúng Có rất nhiều hình thức, trò chơi mà GV có thể sáng tạo vừa bổ ích lại phù hợp với bài học và HS. Trò chơi bịt mắt vẽ tranh * Tóm lại: Bằng trò chơi, việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan, nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Nhất là đối với bộ môn Mỹ thuật, là bộ môn sáng tạo ra cái đẹp thì việc phương pháp tổ chức trò chơi sẽ giúp cho các em có được không khí học tập nhẹ nhàng – tạo cảm xúc bất ngờ cho học sinh để có những điều bất ngờ hay độc đáo trong bố cục, xây dựng hình và cách dùng màu được tốt hơn. Có tinh thần đoàn kết hơn giữa các thành viên trong đội chơi. 2.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. Qua thời gian áp dụng đề tài này và với khả năng vận dụng của các em có chuyển biến theo hướng tốt với kết quả đạt được: Thống kê chất lượng phân môn vẽ tranh bộ môn mĩ thuật khối THCS (qua 3 năm học khảo sát) Khối Tổng số HS Đạt Chưa đạt Tỉ lệ (%) Năm học 2010-2011 2011-2012 2012-2013 2010-2011 2011-2012 2012-2013 2010-2011 2011-2012 2012-2013 2010-2011 2011-2012 2012-2013 6 169 167 174 151 162 173 18 5 1 89,3 97,0 99,4 7 172 169 176 160 164 175 12 5 1 93,0 97,0 99,4 3. PHẦN KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ: 3.1. Kết luận Phân môn vẽ tranh là điển hình của óc quan sát, ghi nhớ và cảm xúc của người vẽ.Vì thể loại vẽ tranh với nhiều đề tài khác nhau, mỗi đề tài lại có nhiều nội dung và các hình ảnh khác nhau, đó là phân môn mà người vẽ có điều kiện thể hiện các hoạt động trong cuộc sống của con người và phong cảnh thiên nhiên.Bài vẽ tốt là thể hiện được sự quan sát tinh tế ở một góc độ nào đó trong cuộc sống , đối với học sinh là sự quan sát ngộ nghĩnh đáng yêu kết hợp với màu sắc trong sáng vui tươi.Vì vậy giờ học vẽ tranh GV cần gợi ý để học sinh vận dụng hết khả năng quan sát tinh tế của mình, và GV cần truyền cảm hứng cho HS điều đó sẽ quyết định cho một bài vẽ sinh động với những điều ngộ nghĩnh đáng yêu. Nếu GV thực hiện đầy đủ các mục tiêu đề ra thì việc dạy học đạt kết quả chúng tôi chúng ta cũng cần chú ý rằng Mĩ thuật nên được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: ngoài những tiết ở trên lớp nên có những tiết tham quan dã ngoại hoặc tổ chức học theo nhóm nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Và qua nghiên cứu về đề tài : “Một số phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh THCS trong việc học phân môn vẽ tranh – môn Mĩ thuật. Hy vọng rằng với những phương pháp dạy học tích cực sẽ đem lại hiệu quả cao hơn nữa cho hoạt động dạy học Mĩ thuật nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng không chỉ đối với trường THCS Trần Hưng Đạo mà còn có thể áp dụng cho nhiều trường THCS khác . 3.2. Kiến nghị Đối với môn mĩ thuật tôi có một số đề xuất như sau: + Cần phải có phòng học riêng cho bộ môn mĩ thuật. + Cần phải có bảng vẽ, giá vẽ cho học sinh. + Nên tổ chức các hội thi làm đồ dùng dạy học và tạo điều kiện vật chất để GV làm thêm nhiều đồ dùng dạy học hơn nữa. + Nên tổ chức các hội thi vẽ tranh cho HS.Các em được cùng sinh hoạt, vui chơi, tìm hiểu thực tế và cùng sáng tạo + Song song với phong trào viết về người mẹ (20-10), viết thư cho chú bộ đội (22-12), văn nghệ chào mừng 20-11 có thể vẽ tranh về những đề tài trên để triển lãm,gửi tặng chú bộ đội, tặng mẹ, tặng thầy cô, vẽ báo tường; thi vẽ tranh hưởng ứng tháng (năm) an toàn giao thông ,thi vẽ truyện tranh + Tổ chức triển lãm tranh cho HS lồng ghép trong một số phong trào của trường, treo một số bức tranh đẹp, ý nghĩ tại văn phòng, lớp học, phòng truyền thống Trong chuyên môn cần tổ chức những buổi sinh hoạt theo tổ, nhóm, cụm chuyên môn để trao đổi kinh nghiệm, thống nhất những nội dung, chương trình mới để việc dạy và học tốt hơn nữa. DANH MỤC VIẾT TẮT GDPT: Giáo dục phổ thông HS: Học sinh GV: Giáo viên PPDH: Phương pháp dạy học THCS: Trung Học Cơ Sở PP: Phương pháp DH: Dạy học TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phương pháp giảng dạy mỹ thuật – Nguyễn Quốc Toản , NXB Giáo dục, 1999. 2. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn mỹ thuật THCS – Đàm Luyện – Nguyễn Quốc Toản – Bạch Ngọc Diệp, NXB Giáo dục . 3. Giáo trình giáo dục học – Tập 1, NXB Đại học Sư phạm. 4. Hoạt động dạy học ở trường THCS – Nguyễn Ngọc Bảo – Hà Thị Đức,NXB Giáo dục. 5. Tài liệu tập huấn giáo viên: Dạy học, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong chương trình giáo dục phổ thông môn Mĩ thuật cấp THCS,Hà Nội,2010. 6. Luật xa gần – Đặng Xuân Cường, NXB Đại Học Sư Phạm, 2003.
Phương Pháp Dạy Môn Tin Học Nhằm Phát Huy Tính Tích Cực Của Học Sinh Trường Thpt Võ Văn Kiệt
CHUYÊN ĐỀ: PHƯƠNG PHÁP DẠY MÔN TIN HỌC NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRƯỜNG THPT VÕ VĂN KIỆT
I/ Mục tiêu: Khi nói đến Tin học thì ai cũng liên tưởng đến chiếc máy tính điện tử, là công cụ mà con người tạo ra để lưu trữ, xử lý và truyền tải thông tin. Vì vậy việc dạy và học Tin học nói chung cần phải có các trang thiết bị, đồ dùng dạy học của nhà trường, điều kiện của địa phương. Dạy học Tin học thường gồm có hai phần: Lý thuyết và thực hành, cả hai được kết hợp song song với nhau trong quá trình dạy học, phần lý thuyết Tin học là rất mới đối với đa số học sinh. Vì vậy trong một tiết học lý thuyết Tin học thường rất khô khan, có thể nói, sự cung cấp kiến thức thường diễn ra một chiều, bỡi vì : Đây là một môn học mới, khó học, có nhiều khái niệm trừu tượng, nhiều thuật ngữ chuyên ngành, ngôn ngữ tiếng Anh, vì vậy học sinh khó hiểu, khó hình dung, còn xa lạ với nhiều học sinh mà nhất là chương trình tin học lớp 11 (học lập trình) tiếp cận với nhiều từ chuyên ngành do đó trong tiết học lý thuyết Tin học rất dễ bị nhàm chán, những học sinh theo không kịp không thể tự tìm cho mình kiến thức. Vì vậy tiết học thực hành ít có hiệu quả, giờ thực hành không khỏi còn nhiều lộn xộn, xảy ra tình trạng học sinh ngại tiếp cận, thậm chí có những học sinh nhút nhát bị bạn dành máy, mặc cảm nên rất ít chụi thực hành. Như vậy để khắc phục được hạn chế nêu trên, trước hết giáo viên cần phải có một phương pháp dạy học thật tốt, một phương thức tổ chức dạy học giờ thực hành sao cho thích hợp và có hiệu quả 1
nhất. Phương pháp dạy học của giáo viên có vai trò rất quan trọng, nó sẽ là công cụ giúp học sinh hứng thú học tập hơn. Hơn nữa, trong xu thế xã hội ngày càng phát triển, sự đổi mới của đất nước, nền giáo dục cũng có những thay đổi căn bản cả về nội dung lẫn phương pháp dạy học và ngày càng hội nhập sâu vào sự tiến bộ chung của các nền giáo dục trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy việc vận dụng các phương pháp dạy học tiến bộ, tích cực trong tất cả các môn học nói chung cũng như trong giảng dạy môn Tin học nói riêng cũng là phù hợp với xu thế chung của nền giáo dục hiện đại theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục của môn học. II/ Nhiệm vụ : Tin học là một môn học mang tính khoa học và công nghệ, tốc độ phát triển và thay đổi rất nhanh, diễn ra hàng ngày, hàng giờ và thậm chí hàng giây. Vì vậy khi giảng dạy, giáo viên nên hướng cho học sinh ý thức tự học, tự tìm tòi nghiên cứu, học thông qua nhiều nguồn khác nhau, đổi mới phương pháp trong giảng dạy, sử dụng các phương tiện dạy học mới như học qua mạng, soạn giáo án điện tử, kiểm tra trắc nghiệm trên máy, sử dụng đồ dùng dạy học trực quan, máy chiếu projector… để phát huy được tính tích cực, tự giác học tập của học sinh. Tóm lại: Từ những thực trạng nêu trên muốn nâng cao chất lượng giáo dục, theo kịp với nền giáo dục hiện đại giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học sao cho có hiệu quả nhất khắc phục được những hạn chế nêu trên. III/ Phương pháp nghiên cứu:
2
Học sinh ở lứa tuổi THPT rất cá biệt và thích khẳng định mình do đó đòi hỏi mỗi giáo viên cần phải tìm hiểu rõ tâm, sinh lý lứa tuổi để có một phương pháp giáo dục phù hợp, gây được ấn tượng để học sinh thích học và học tốt môn mình dạy. Vì vậy để đạt được điều đó thì phương pháp dạy học của người giáo viên có vai trò rất quan trọng, dạy học không nên áp đặt, bắt học sinh phải làm cái này hay phải thuộc cái kia, mà quan trọng hơn là phải tác động đến tâm lý của học sinh, làm sao cho các em cảm thấy hứng thú, thích học tập và tự giác học tập. Như vậy nắm được đặc điểm tâm, sinh lý của học sinh là điều kiện rất quan trọng để chúng tôi đưa ra một phương pháp dạy học phù hợp nhất, phù hợp với lứa tuổi, phù hợp với môn học và điều kiện thực tế sẽ góp phần nâng cao chất lượng trong giảng dạy môn Tin học trong nhà trường mà bản thân tôi đã thực hiện. IV/ Nội dung và biện pháp thực hiện: 1/ Thực trạng của vấn đề đặt ra và sự cần thiết để tiến hành thực hiện chuyên đề a) Thực trạng chung Đây là một môn học mới, khó học, dạy học Tin học thường gồm có hai phần: Lý thuyết và thực hành, cả hai được kết hợp song song với nhau trong quá trình dạy học, phần lý thuyết Tin học là rất mới đối với đa số học sinh. Vì vậy trong một tiết học lý thuyết Tin học thường rất khô khan, có thể nói, sự cung cấp kiến thức thường diễn ra một chiều, bỡi vì : Đây là một môn học mới, khó học, 3
có nhiều khái niệm trừu tượng, nhiều thuật ngữ chuyên ngành, ngôn ngữ tiếng Anh, vì vậy học sinh khó hiểu, khó hình dung, còn xa lạ với với các em mà nhất là chương trình tin học lớp 11 (học lập trình) tiếp cận với nhiều từ chuyên ngành do đó trong tiết học lý thuyết Tin học rất dễ bị nhàm chán, những học sinh theo không kịp không thể tự tìm cho mình kiến thức. Vì vậy tiết học thực hành ít có hiệu quả, giờ thực hành không khỏi còn nhiều lộn xộn, xảy ra tình trạng học sinh ngại tiếp cận, thậm chí có những học sinh nhúc nhát bị bạn dành máy, mặc cảm nên rất ít chụi thực hành. Như vậy để khắc phục được hạn chế nêu trên, trước hết giáo viên cần phải có một phương pháp dạy học thật tốt, một phương thức tổ chức dạy kết hợp giữa lý thuyết và thực hành sao cho thích hợp và có hiệu quả nhất. 2/ Cách giải quyết vấn đề * Phương pháp dạy học theo nghĩa rộng Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (methodos) có nghĩa là con đường để đạt mục đích. Dấu hiệu bản chất của phương pháp là tính hướng đích, phương pháp gắn liền với hoạt động, với các hệ thống, các chỉ dẫn. Theo đó, Phương pháp dạy học (PPDH) là con đường để đạt mục đích dạy học. PPDH là cách thức hành động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức không tách rời nhau một cách độc lập.
4
đề và chỉ dẫn các công cụ để giải quyết vấn đề. Giáo viên là người tư vấn và cùng tổ chức quá trình học tập. Việc dạy được tiến hành với ý nghĩa gợi ý, hỗ trợ và tư vấn cho người học. Tính lặp lại các phương pháp dạy đã sử dụng bị hạn chế. Quá trình học là đối tượng đánh giá nhiều hơn là kết quả học tập. Học sinh cần được tham gia vào quá trình đánh giá. Phương pháp dạy học trong giảng dạy Tin học dựa trên lý thuyết hành động nhận thức, lý thuyết hoạt động. Bỡi vì trong quá trình nhận thức cần có sự kết hợp giữa tư duy và hành động, giữa lý thuyết và thực hành, từ đó học sinh lĩnh hội được kiến thức bằng các hành động cụ thể. Vì vậy phương pháp dạy học mà chúng tôi giảng dạy môn Tin học có các đặc điểm sau: a- Người học là chủ thể của hoạt động dạy học, học trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, tích cực. Người học là chủ thể chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kỉ năng, hình thành thái độ chứ không phải là nhân vật bị động hoàn toàn theo lệnh của thầy giáo. Thầy giáo đóng vai trò chủ đạo điều khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh. Học sinh thông qua những hoạt động cụ thể để định hướng thành động cơ, kiến tạo tri thức mới cho mình. Chẳng hạn khi dạy một nội dung lý thuyết Tin học người giáo viên cần đưa ra một hệ thống rất nhiều câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc đầu bao giờ cũng nêu ra những câu hỏi rất dễ để lôi cuốn, phát huy tính tích cực hoạt động đến tất cả các đối tượng học sinh mà nhất là những học sinh yếu kém, giáo viên cần ưu tiên, khuyến khích các đối tượng này. Sau đó đưa ra các câu hỏi khó dần để tất cả học sinh tham gia ý kiến và tự hình thành tri thức mới, giáo viên góp ý, nhận xét để học sinh xác nhận lại kiến thức mới đó. 7
b- Dạy học lý thuyết kết hợp với thực hành Phương pháp dạy học lý thuyết kết hợp với thực hành có thể nói là mới đối với các môn học khác, nhưng với môn Tin học thì phương pháp này là không thể thiếu khi dạy bất kì một nội dung Tin học nào. Đây là một phương pháp dạy học chủ đạo trong quá trình dạy học Tin học. Bỡi vì: học sinh học rất nhiều môn, Thực tế trong nhà trường môn Tin học bị xem như là một môn học phụ, lượng kiến thức cho học sinh học bị dồn nén. Do dó: nếu học lý thuyết chung chung học sinh rất mau quên. Kiến thức Tin học là những nội dung tương đối mới mẻ, xa lạ và có nhiều khái nệm rất trừu tượng đối với nhiều học sinh. Hơn nữa kiến thức Tin học đòi hỏi rất nhiều kỹ năng sử dụng máy tính nhanh chóng và chính xác. Chẳng hạn khi dạy nội dung tạo bảng nếu yêu cầu học sinh trình bày cách tạo bảng bằng lời lẽ thì đây là một yêu cầu rất khó ngay cả đối với học sinh giỏi. Còn nếu yêu cầu học sinh lên máy tính thực hiện và trình bày thì có rất nhiều học sinh biết, ngay cả những học sinh trung bình và yếu. Vì vậy dạy học lý thuyết gắn liền với thực hành trên máy tính là điều kiện rất quan trọng để học sinh nắm được kiến thức mới, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho mình. Kiến thức Tin học không đòi hỏi cao ở khả năng trình bày lý thuyết xuông mà đòi hỏi học sinh phải có kỷ năng thực hành giỏi, biết sử dụng máy tính thành thạo. c- Giáo dục vệ sinh học đường trong tiết thực hành Đây là một yêu cầu rất cơ bản và cần thiết đối với mọi người học Tin học, cần phải được giáo dục tốt. Vào đầu năm học cần thông qua cho học sinh 8
nội quy phòng máy. Các máy tính phải được đánh số thứ tự và có sơ đồ bàn giao theo nhóm hai học sinh một máy, các học sinh này có trách nhiệm quản lý và thực hành máy của mình tránh hiện tượng giành máy, gây mất trật tự trong giờ học. Giờ thực hành phải thực hiện nghiêm túc giống như một tiết học lý thuyết bình thường, học sinh ngồi thực hành phải đúng tư thế và đảm bảo các yêu cầu sau: – Ngồi thẳng, tư thế thoải mái sao cho không phải ngẩng cổ hay ngước mắt khi nhìn vào màn hình, không ngồi nghiêng, ngồi ngửa khi thực hành. – Tay đặt ngang tầm bàn phím không vươn ra xa, chuột đặt bên tay phải. – Nên giữ khoảng cách từ mắt học sinh đến màn hình trong khoảng 50cm đến 80cm. – Không nên nhìn quá lâu vào màn hình. – Máy tính nên đặt ở vị trí sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào màn hình và không chiếu thẳng vào mắt của học sinh. – Phòng máy phải gọn gàng, sạch sẽ đảm bảo an toàn cho học sinh. Học Tin học phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính, nếu không giáo dục tốt cho học sinh về ý thức vệ sinh học đường khi thực hành máy tính thì học sinh rất dễ mắc các bệnh như cận thị, vẹo cột sống, mệt mỏi khi ngồi học… ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể lực, trí lực của học sinh. d- Các hình thức đánh giá thông thường sẽ được sử dụng phối hợp với hình thức trác nghiệm, kiểm tra trên máy, đánh giá mức độ và kết quả của bài thực hành . 9
* Kiểm tra: Là quá trình nhằm cung cấp cho thầy và trò những thông tin về kết quả dạy và học được thực hiện thường xuyên và xen lẫn trong quá trình dạy học. Việc kiểm tra nhằm hai mục đích là tức thời và lâu dài. Tức thời: Tại thời điểm nào đó, thầy giáo dùng một biện pháp nào đó (thường là các câu hỏi trắc nghiệm kèm theo phương án trả lời) để nắm được ngay kết quả kiểm tra làm căn cứ cho các bước tiếp theo của tiết học. Lâu dài: Giúp thầy giáo thấy được sự thành công hay thất bại của quá trình dạy học, cung cấp một bức tranh về tình hình học sinh làm cơ sở cho việc lập kế hoạch dạy học, đi sâu vào việc phân hóa đối tượng, chú ý giáo dục học sinh cá biệt. Một số hình thức kiểm tra: Kiểm tra miệng: Ngoài việc thực hiện mục tiêu chung là đánh giá kết quả học tập ngắn của học sinh. Kiểm tra miệng còn có mục tiêu riêng là thu hút sự chú ý của học sinh đối với bài học, tạo liên kết giữa bài học trước, bài học hiện tại và bài học sắp tới. Kích thích sự tham gia tích cực của học sinh vào bài giảng của giáo viên. Giúp giáo viên thu thập kịp thời thông tin phản hồi để có những điều chỉnh thích hợp. Kiểm tra thực hành trên máy: Mục tiêu đánh giá năng lực thực hiện các bài tập thực hành tin học của học sinh. Đánh giá kỹ năng thực hành của học sinh. Đánh giá về thái độ trung thực độc lập, hợp tác, tính kiên trì, thận trọng trong khi thực hành. Gây hứng thú cho học sinh trong việc học tin học.
10
Kiểm tra viết: Theo truyền thống các bài kiểm tra viết vẫn có vai trò chủ đạo trong hệ thống các bài kiểm tra. Kết hợp giữa kiểm tra trắc nghiệm và tự luận. Tự luận: kiểm tra bằng các câu hỏi buộc phải trả lời theo dạng mở, học sinh tự mình trình bày lại kiến thức ở nội dung nào đó để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra. Trắc nghiệm: Đề bài thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu lên vấn đề và các thông tin cần thiết để học sinh có thể trả lời từng câu một cách ngắn gọn. Các thể loại của trắc nghiệm là ghép đôi, điền khuyết, trả lời ngắn, câu đúng sai, câu nhiều lựa chọn… Ngoài ra còn có hình thức kiểm tra kiến thức trên máy: Giáo viên chuẩn bị các gói câu hỏi theo đơn vị kiến thức: kiểm tra sau mỗi bài, mỗi chương, hay kiểm tra cho mỗi học kỳ bằng nhiều dạng câu hỏi có sự chọn lựa, đánh giá kết quả sau đó đưa lên trang riêng hay kết nối trường trực tuyến để học sinh truy cập và ôn tập tại nhà. 2- Đánh giá Cơ sở của việc đánh giá là những bài kiểm tra, bên cạnh đó còn phải căn cứ vào quá trình và kết quả thực hành của học sinh. Mục đích kiểm tra đánh giá không chỉ dừng ở chỗ cho học sinh một điểm số mà quan trọng là phân tích kết quả cho học sinh thấy được điểm mạnh, chỗ yếu của mình, chỗ nào nắm vững, vạch ra sai lầm và hướng khắc phục. V/ PHẦN KẾT LUẬN 11
ngày 20 tháng 03 năm
2023 Trần Lập Quốc
12
Cập nhật thông tin chi tiết về Một Số Biện Pháp Phát Huy Tính Tích Cực, Tự Giác Trong Học Tập Của Học Sinh Lớp 1 Trường Tiểu Học Quảng Kim : Phòng Gd&Đt Quảng Trạch trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!