Bạn đang xem bài viết Lịch Sử Áo Dài Việt Nam Qua Các Thời Kỳ – Áo Dài Xưa Và Nay được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Chiếc áo dài truyền thống của dân tộc Việt Nam từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều thời kì phát triển, ở mỗi thời kì đều có một nét đặc trưng riêng khó có thể lẫn lộn.
Áo dài từ lâu đã là trang phục truyền thống và là nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Trải qua từng thời kì phát triển của lịch sử, áo dài luôn không ngừng biến đổi nhưng vẫn đảm bảo tôn được vẻ đẹp dịu dàng truyền thống của người phụ nữ Việt. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu đôi nét về lịch sử áo dài Việt Nam qua các thời kỳ để chúng ta cùng tham khảo.
Áo giao lãnhĐến nay, chưa có nhà nghiên cứu nào có thể xác định chính chính xác lịch sử áo dài và thời điểm xuất hiện của áo dài. Theo nhận định cảm quan của người Trung Quốc thì áo dài xuất thân từ sườn xám nhưng sườn xám mới xuất hiện từ năm 1920 còn áo dài đã xuất hiện cách đây hàng ngàn năm.
Sự xuất hiện của áo dài bắt nguồn từ áo giao lãnh – là kiểu dáng sơ khai nhất của áo dài Việt Nam. Áo giao lãnh còn được gọi là áo đối lĩnh, được may rộng, xẻ hai bên hông, cổ tay rộng, thân dài chấm gót. Thân áo được may bằng 4 tấm vải kết hợp mặc cùng thắt lưng màu và váy đen. Đây là kiểu áo cổ chéo gần giống với áo tứ thân.
Áo dài tứ thân (thế kỉ 17)
Theo các nhà nghiên cứu và những hiện vật tại các bảo tàng áo dài thì để tiện hơn trong việc lao động sản xuất của người phụ nữ, chiếc áo giao lãnh được may rời 2 tà trước để buộc vào với nhau, hai tà sau may liền lại thành vạt áo.
Loại áo này thường may màu tối, được xem là chiếc áo mộc mạc, khiêm tốn mang ý nghĩa tượng trưng cho 4 bậc sinh thành của hai vợ chồng.
Áo dài ngũ thân (thời Vua Gia Long)Trên cơ sở áo tứ thân, đến thời vua Gia Long áo ngũ thân xuất hiện. Loại áo này thường được may thêm một tà nhỏ để tượng trưng cho địa vị của người mặc trong xã hội. Giai cấp quan lại quý tộc thường mặc áo ngũ thân để phân biệt với các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.
Áo có 4 vạt được may thành 2 tà như áo dài, ở tà trước có thêm một vạt áo như lớp lót kín đáo chính là vạt áo thứ 5. Kiểu áo này được may theo phom rộng, có cổ và rất thịnh hành đến đầu thế kỉ XX.
Áo dài LemurKiểu áo này được cải biến từ áo ngũ thân do họa sĩ Cát Tường sáng tạo vào năm 1939. Áo dài Lemur là tên được đặt theo tên tiếng Pháp của bà, áo chỉ có hai vạt trước và sau, vạt trước dài chấm đât, áo được may ôm sát cơ thể, tay thẳng và có viền nhỏ. Khuy áo được mở sang bên sườn nhằm nhấn thêm vẻ nữ tính, kiểu áo này thịnh hành đến 1943 thì bị lãng quên.
Áo dài Lê Phổ
Đây cũng là một sự kết hợp mới từ áo tứ thân, biến thể của áo dài Lemur của họa sĩ Lê Phổ nên được gọi là áo dài Lê Phổ. Vạt áo được may dài, tay không phồng, cổ kín, nút bên phải áo, may ôm sát cơ thể.
Kiểu áo dài Việt Nam xưa này mặc với quần ống loe màu trắng, được phụ nữ Việt rất ưa thích suốt thời gian dài.
Áo dài Raglan
Áo dài Raglan còn gọi là áo dài giắc lăng, xuất hiện vào năm 1960 do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra.
Điểm khác biệt lớn nhất của áo dài Raglan là áo ôm khít cơ thể hơn, cách nối tay từ cổ chéo xuống một góc 45 độ giúp người mặc thoải mái linh hoạt hơn. Hai tà nối với nhau bằng hàng nút bấm bên hông. Đây chính là kiểu áo dài góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.
Áo dài Trần Lệ XuânKiểu áo dài này được gọi là áo dài bà Nhu, thiết kế và cải tiến vào năm 1968, được bà Trần Lệ Xuân đưa đi quảng bá khắp nơi với người nước ngoài, đi tiệc, đi chơi…
Phần cổ của áo được bỏ đi, gọi là áo cổ thuyền. Kiểu cổ áo này lấy ý tưởng từ áo tầm vông của người Khơmer chưa lập gia đình. Lúc đầu, thiết kế này bị phản đối vì đi ngược lại thuần phong mĩ tục, nhưng sau này lại rất được ưa chuộng vì sự đơn giản, tinh tế và thoải mái.
Áo dài truyền thống Việt Nam (từ 1970 đến nay)
Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ hiện đại đến phá cách. Áo dài còn được biến chuyển thành áo cưới, áo cách tân… Nhưng dù thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được nét uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo mà không trang phục nào mang lại được.
Cùng với xu hướng năng động, thay đổi của lối sống hiện đại, tà áo dài truyền thống được các nhà thiết kế cách điệu với tà ngắn hơn, thay đổi ở cổ áo, tay áo hoặc thậm chí là tà áo hoặc quần mặc chung với áo dài đem đến cho người phụ nữ Việt nhiều sự chọn lựa.
Cũng chính vì sự cách điệu này mà áo dài ngày càng được phụ nữ Việt diện nhiều hơn trong đời sống hàng ngày.
Bạn có thể bắt gặp tà áo dài đầy màu sắc với nhiều kiểu dáng mới lạ, độc đáo trong văn phòng, chốn chùa chiền linh thiêng hay thậm chí khi đi dạo phố bên ngoài.
Cấu tạo áo dài truyền thống
Dù là áo dài ở thời kỳ nào thì cấu tạo của một bộ áo dài đều gồm các phần: cổ áo, thân áo, tà áo, tay áo, quần.
Cổ áo: Kiểu cổ áo cổ điển cao 4-5cm, khoét chữ V nhằm tôn vẻ đẹp chiếc cổ 3 ngấn của người phụ nữ Việt. Ngày nay, cổ áo được biến tấu nhiều kiểu như cổ tròn, cổ thuyển, cổ trái tim…
Thân áo: Được may vừa vặn, chiết eo ôm sát cơ thể. Cúc áo thường là cúc bấm, hai tà áo được tính từ chỗ chít eo bên hông.
Tà áo: Có hai tà trước và sau và bắt buộc phải dài qua gối.
Tay áo: May ôm sát cánh tay, dài và không có cầu vai.
Quần: Áo dài được mặc kết hợp với quần thay cho váy như trước. Quần may châm gót, vải mềm, màu sắc đa dạng.
Với lịch sử phát triển qua thời gian dài như vậy, chiếc áo dài Việt Nam đã hoàn thiện hơn bao giờ hết. Áo dài trở thành biểu tượng của nền văn hóa, tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt.
Có thể nói, áo dài không chỉ là một bộ trang phục đại diện cho cả một nền văn hóa, mà còn là cảm hứng sáng tác không dứt của nghệ thuật Việt Nam.
Lịch Sử Phát Triển Áo Dài Việt Nam Qua Các Thời Kỳ
Chiếc áo dài truyền thống của dân tộc Việt Nam từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều thời kì phát triển, ở mỗi thời kì đều có một nét đặc trưng riêng biệt.
Áo dài từ lâu đã là trang phục truyền thống và là nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt Nam. Trải qua từng thời kì phát triển của lịch sử, áo dài luôn không ngừng biến đổi nhưng vẫn đảm bảo tôn được vẻ đẹp dịu dàng truyền thống của người phụ nữ Việt.
Áo dài đã phát triển qua rất nhiều năm tháng và trở thành nét đặc trưng của ngành công nghiệp thời trang Việt Nam, đồng thời là một danh tính chính trị và văn hoá kể từ lúc nó bắt đầu xuất hiện dưới thời nhà Nguyễn.
Áo giao lĩnh
Đến nay, chưa có nhà nghiên cứu nào có thể xác định chính chính xác lịch sử áo dài và thời điểm xuất hiện của áo dài. Theo nhận định cảm quan của người Trung Quốc thì áo dài xuất thân từ sườn xám nhưng sườn xám mới xuất hiện từ năm 1920 còn áo dài đã xuất hiện cách đây hàng ngàn năm.
Sự xuất hiện của áo dài bắt nguồn từ áo giao lĩnh (năm 1744) – là kiểu dáng sơ khai nhất của áo dài Việt Nam. Áo giao lĩnh còn được gọi là áo đối lĩnh, được may rộng, xẻ hai bên hông, cổ tay rộng, thân dài chấm gót. Thân áo được may bằng 4 tấm vải kết hợp mặc cùng thắt lưng màu và váy đen. Đây là kiểu áo cổ chéo gần giống với áo tứ thân.
Hình ảnh người phụ nữ Việt trong trang phục áo dài giao lĩnh được ghi lại ở tài liệu của Pháp.
Áo giao lãnh được xem là nguyên gốc của áo dài Việt Nam xưa.
Vào thời gian này, vua Nguyễn Phúc Khoát đã lên ngôi và cai trị vùng đất phía Nam. Miền bắc được cai quản bởi chúa Trịnh ở Hà Nội, người dân ở đây mặc áo giao lĩnh, trang phục mang nét tương đồng với người Hán. Nhằm phân biệt giữa Nam và Bắc, vua Nguyễn Phúc Khoát đã yêu cầu tất cả phụ tá của mình vận quần dài bên trong một chiếc áo lụa. Bộ váy này kết hợp giữa trang phục người Hán và Chămpa. Có thể đây là hình ảnh của bộ áo dài đầu tiên.
Áo dài tứ thân (thế kỉ 17)
Mẫu áo dài tứ thân được lưu giữ tại bảo tàng phụ nữ Việt Nam.
Theo các nhà nghiên cứu và những hiện vật tại các bảo tàng áo dài thì để tiện hơn trong việc lao động sản xuất của người phụ nữ, chiếc áo giao lĩnh được may rời 2 tà trước để buộc vào với nhau, hai tà sau may liền lại thành vạt áo.
Loại áo này thường may màu tối, được xem là chiếc áo mộc mạc, khiêm tốn mang ý nghĩa tượng trưng cho 4 bậc sinh thành của hai vợ chồng.
Áo dài ngũ thân (thời Vua Gia Long)
Trên cơ sở áo tứ thân, đến thời vua Gia Long áo ngũ thân xuất hiện. Loại áo này thường được may thêm một tà nhỏ để tượng trưng cho địa vị của người mặc trong xã hội. Giai cấp quan lại quý tộc thường mặc áo ngũ thân để phân biệt với các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.
Áo có 4 vạt được may thành 2 tà như áo dài, ở tà trước có thêm một vạt áo như lớp lót kín đáo chính là vạt áo thứ 5. Kiểu áo này được may theo phom rộng, có cổ và rất thịnh hành đến đầu thế kỉ XX.
Áo dài Lemur
Kiểu áo này được cải biến từ áo ngũ thân do họa sĩ Cát Tường sáng tạo vào năm 1939. Áo dài Lemur là tên được đặt theo tên tiếng Pháp của bà, áo chỉ có hai vạt trước và sau, vạt trước dài chấm đât, áo được may ôm sát cơ thể, tay thẳng và có viền nhỏ. Khuy áo được mở sang bên sườn nhằm nhấn thêm vẻ nữ tính, kiểu áo này thịnh hành đến 1943 thì bị lãng quên.
Áo dài Lemur.
Áo dài Lê Phổ
Đây cũng là một sự kết hợp mới từ áo tứ thân, biến thể của áo dài Lemur của họa sĩ Lê Phổ nên được gọi là áo dài Lê Phổ.
Bà đã thu gọn kích thước áo dài để ôm khít thân hình người phụ nữ Việt Nam, đẩy cầu vai, kéo dài tà áo chạm đất và đem đến nhiều màu sắc mới mẻ. Nói cách khác, bà khiến nó trở nên gợi cảm, tinh tế và thu hút hơn.
Sau bốn năm phổ biến, ‘áo dài le mur’ được hoạ sĩ Lê Phổ đã bỏ hết những ảnh hưởng phương Tây và thay thế bằng những chi tiết từ áo tứ thân. Từ thời điểm này đến những năm 1950, phong cách áo dài Việt Nam đã trở nên vô cùng nổi tiếng trong truyền thống nước nhà.
Áo dài Raglan
Áo dài Raglan còn gọi là áo dài giắc lăng, xuất hiện vào năm 1960 do nhà may Dung ở Đakao, Sài Gòn sáng tạo ra.
Điểm khác biệt lớn nhất của áo dài Raglan là áo ôm khít cơ thể hơn, cách nối tay từ cổ chéo xuống một góc 45 độ giúp người mặc thoải mái linh hoạt hơn. Hai tà nối với nhau bằng hàng nút bấm bên hông. Đây chính là kiểu áo dài góp phần định hình phong cách cho áo dài Việt Nam sau này.
Mẫu áo dài Lê Phổ cổ cao được xem là mẫu nguyên gốc của thiết kế áo dài Việt hiện nay.
Áo dài Raglan với đặc điểm nổi bật ôm khít phần eo.
Áo dài truyền thống Việt Nam (từ 1970 đến nay)
Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ có sự biến đổi với nhiều kiểu dáng, chất liệu từ hiện đại đến phá cách. Áo dài còn được biến chuyển thành áo cưới, áo cách tân… Nhưng dù thế nào thì chiếc áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt vẫn giữ được nét uyển chuyển, gợi cảm, kín đáo mà không trang phục nào mang lại được.
Áo dài truyền thống Việt được mặc nhiều vào dịp lễ, Tết.
Áo dài truyền thống hiện đại ngày nay.
Cùng với xu hướng năng động, thay đổi của lối sống hiện đại, tà áo dài truyền thống được các nhà thiết kế cách điệu với tà ngắn hơn, thay đổi ở cổ áo, tay áo hoặc thậm chí là tà áo hoặc quần mặc chung với áo dài đem đến cho người phụ nữ Việt nhiều sự chọn lựa.
Người mẫu Hạ vi trong bộ áo dài cách tân.
Mẫu thiết kế áo dài lấy cảm hứng từ áo yếm ngày xưa.
Áo dài cách tân 2 màu
Cũng chính vì sự cách điệu này mà áo dài ngày càng được phụ nữ Việt diện nhiều hơn trong đời sống hàng ngày.
Bạn có thể bắt gặp tà áo dài đầy màu sắc với nhiều kiểu dáng mới lạ, độc đáo trong văn phòng, chốn chùa chiền linh thiêng hay thậm chí khi đi dạo phố bên ngoài.
Dù là áo dài ở thời kỳ nào thì cấu tạo của một bộ áo dài đều gồm các phần: cổ áo, thân áo, tà áo, tay áo, quần.
Với lịch sử phát triển qua thời gian dài như vậy, chiếc áo dài Việt Nam đã hoàn thiện hơn bao giờ hết. Áo dài trở thành biểu tượng của nền văn hóa, tôn lên vẻ đẹp của người phụ nữ Việt.
Có thể nói, áo dài không chỉ là một bộ trang phục đại diện cho cả một nền văn hóa, mà còn là cảm hứng sáng tác không dứt của nghệ thuật Việt Nam.
Bộ ảnh áo dài truyền thống Việt với nét đẹp buồn.
Lược Sử Áo Dài Việt Nam
1. Bàn về nguồn gốc Áo dài Việt Nam
Thiển nghĩ, chúng ta không nên quá lo lắng về chuyện ai đó cho rằng, áo dài Việt Nam là sự sao chép, hay đại khái có nguồn gốc từ Trung Hoa, bởi:
– Các sách Sử ký, Tiền Hán thư, Hậu Hán thư, Giao châu ngoại vực ký, Thủy kinh chú,… của Trung Hoa đều thừa nhận sự khác biệt giữa văn minh Hán và phong hóa Giao Chỉ. Thư của Hoài Nam Vương Lưu An gửi Hán Vũ Đế khẳng định rằng, ” Dân Việt là dân cạo tóc, vẽ mình, không thể lấy pháp độ của nước đội mũ mang đai (Trung Hoa) mà trị được. Từ thời Tam Đại (Hạ Thương Chu) thịnh trị, đất Hồ, đất Việt không theo chính sóc (lịch của Trung Quốc) “2. Điều ấy cho thấy, tinh thần độc lập, tự chủ của người Việt đã được hun đúc, đã được khẳng định từ lâu rồi.
– Trong các sách Giao châu ngoại vực ký, Thủy kinh chú, Hậu Hán thư đều có ghi chép về thuật canh tác, lối ăn mặc của người Việt ở thời Đông Sơn. Đối chiếu các sách này và dựa vào trang trí trên cán dao găm hình người, hoa văn trên trống đồng và các thư tịch cổ Trung Hoa, GS Trần Quốc Vượng và các đồng sự cho rằng, ” Người Đông Sơn không phải chỉ biết có ở trần, mặc vỏ sui như nhiều người thường nghĩ. (…) Các tài liệu đều phản ánh lối ăn mặc quần áo theo phương châm giản dị, gọn gàng tới mức tối đa: Ở trần, đóng khố, đi chân đất. Riêng với nữ phổ biến mặc váy thay khố. Tuy vậy cũng có một số loại áo, áo cánh dài tay, áo xẻ ngực bên trong có yếm. Ngoài ra còn có một số trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết, khố dài thêu, …”3.
– GS Đào Duy Anh cũng nói rõ, ” Theo sách Sử – ký chép thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo gài về bên tả (tả nhiệm). Sử lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu – chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách chép đó thì ta có thể đoán rằng trước hồi Bắc thuộc thì dân ta gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung-quốc mới mặc áo gài về tay phải“4. Có hai vấn đề cần làm rõ: 1. Rõ ràng, người Văn Lang có y phục riêng, mặc áo gài bên trái (không phải chỉ ở trần hoặc mặc yếm). Nhiều bài viết do trích dẫn không cẩn thận nên cụm từ “mặc áo bên trái” thành “mặc áo bên trái” làm cho câu văn (dịch từ Sử ký) không rõ nghĩa, dẫn đến sự ngộ nhận rằng, người Văn Lang xưa đã mặc áo dài (!), nhiều người khác sao chép một cách cẩu thả khiến nhận định áo dài đ ã xuất hiện từ thời Hùng Vương trở nên phổ biến, để rồi đi đến mặc nhiên thừa nhận. 2. Sự giao thoa văn hóa từ lâu đã diễn ra giữa các nước trong khu vực rộng lớn bao gồm cả Trung Hoa và các nước trong cộng đồng Bách Việt, trong đó có cả việc người Trung Hoa mặc áo gài bên trái giống như người Việt mà Khổng Tử đã đề cập trong sách Luận ngữ rằng, ” Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di“. Quản Trọng (tức Quản Di Ngô) sống vào cuối thế kỷ VIII đầu thế kỷ VII TCN, tức cũng tương ứng (hoặc sớm hơn một ít) với thời kỳ dựng nước Văn Lang của các vua Hùng, như vậy có nghĩa, thời kỳ này, người Văn Lang đã mặc áo “gài bên trái”, mãi cho đến thế kỷ I Công nguyên, tức khi Âu Lạc đã bị nhà Hán đô hộ thì người Việt mới mặc áo “gài bên phải” như người Trung Hoa. Điều này cũng dễ hiểu, bởi nói như GS Trần Quốc Vượng, ” Nền văn hóa Việt Nam không co lại để tự vệ một cách bảo thủ và cô lập. Nó không từ chối từ những đóng góp của những yếu tố bên ngoài, mà còn tỏ ra có khả năng thu nạp và dung hóa mạnh những cái hay, cái đẹp của các nền văn hóa ngoại lai, kể cả các nước đang xâm lược và đô hộ mình “5. Thế cho nên, việc tiếp thu loại áo gài bên phải là rất có thể, ngoài ra còn có thể tiếp biến nhiều nét văn hóa khác của Trung Hoa.
Điều đáng nói là, cho dù “gài bên trái” hay “gài bên phải” cũng không hẳn đã là áo dài. Vì không một sử liệu nào cho thấy, thời Văn Lang – Âu Lạc, người Việt đã mặc áo dài, kể cả hình ảnh trên trống đồng Ngọc Lũ hay hình người trên cán dao thời Đông Sơn.
Áo dài vương triều
Thế kỷ I Công nguyên, Nhâm Diên ” dạy cho dân quận Cửu-chân dùng kiểu quần áo theo người Tàu“. Hiện tượng này diễn ra trước khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng bùng nổ, vì thế đã có người cho rằng, Hai Bà Trưng ra trận mặc áo dài màu vàng rực rỡ. Tôi cố tìm kiếm một hình ảnh nào đó (hoặc tượng, tranh tượng, phù điêu,…) để có thể tin rằng Hai Bà đã mặc áo dài ra trận, song, tất cả chỉ là những tranh vẽ, phù điêu do người đời sau “sáng tác” dựa vào cái gọi là “tương truyền”. Hai Bà Trưng ra trận ăn mặc đẹp là rất có thể. Còn việc Hai Bà mặc áo dài hay không chưa có cơ sở nào để khẳng định. Vậy, áo dài Việt Nam ra đời từ bao giờ? Bản thân tôi vẫn chưa thể có câu trả lời cụ thể, song một thực tế cần được ghi nhận là không đợi đến khi chiếc “Áo dài Võ Vương”6 ra đời thì lịch sử “Áo dài Việt Nam” mới bắt đầu như một số người quan niệm. Qua khảo cứu tượng bà Tiên Thiên Thánh Mẫu ở chùa Phúc Long (làng Yên Vệ, Khánh Phú, Yên Khánh, Ninh Bình) ta thấy tượng Bà còn giữ nguyên nét cổ xưa với bộ trang phục thời nhà Lý (thế kỷ XI), bên trong mặc nội y, ngoài khoác đối khâm. Có lẽ đến nay, đây là hình ảnh khá sớm về trang phục được xem là áo dài ở Việt Nam.
Với tôi, “Áo dài Việt Nam” đã ra đời trước thế kỷ XI, và có thể đã có từ thời Bắc thuộc. Vì mấy lẽ:
– Bấy giờ, người Trung Hoa đã mặc áo dài. Chính sách đồng hóa của chính quyền phương Bắc, chắc hẳn có ảnh hưởng nhiều đến trang phục của người Việt.
– Trước khi người Trung Hoa thống trị nước ta, người Việt tuy chưa mặc áo dài, nhưng những yếu tố về trang phục trước đó như áo cài khuy (bên trái rồi bên phải), váy dài, váy xẻ, váy xòe,… là tiền đề cơ bản cho sự hình thành chiếc áo dài về sau (yếu tố bản địa kết hợp tiếp biến ngoại lai).
– Việc trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa ở nước ta phát triển mạnh hơn hẳn cả Trung Hoa như thư tịch cổ đã nêu. Đó là cơ sở cho sự hình thành chiếc áo dài về mặt nguyên liệu, gắn liền với kỹ thuật chế tác, thiết kế.
Tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc Việt được hun đúc và trưởng thành trong suốt thời kỳ đấu tranh chống đồng hóa của phong kiến phương Bắc chắc hẳn đã thể hiện trong cách ăn mặc; trong phong tục tập quán và tiếng nói của người Việt, để đến thế kỷ X, khi nền độc lập tự chủ của dân tộc được khôi phục, nhiều nét văn hóa dân tộc được định hình, để rồi đến thời Lý Trần, Triều đình đã ban bố những quy chế về trang phục một cách cụ thể và rõ ràng, chặt chẽ.
Sử sách cho biết, dưới Triều Lý (1009-1225) những quy định về trang phục đã được đặt ra một cách cụ thể. Năm 1030, ” Định kiểu mũ áo của các công hầu văn võ“7. Năm 1040, Nhà vua ” xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ là vua không dùng gấm vóc của nước Tống nữa“8,… Ở thời Trần, như sách Sứ Giao châu thi tập của Trần Cương Trung nhà Nguyên cho biết, ” Người trong nước đều mặc lụa thâm, áo hoa, quần mỏng, áo cổ tròn khâu bằng là, đàn bà cũng mặc áo thâm, nhưng màu trắng ở trong rộng hơn để viền vào cổ áo, rộng bốn tấc, họ cho thế là khác với áo đàn ông, các sắc xanh, hồng vàng tía, tuyệt nhiên không có“9. Năm 1300, Triều đình ” quy đinh kiểu mũ áo mới cho quan văn võ“, theo đó, ” Ống tay áo của các quan văn võ rộng 9 tấc đến 1 thước 2 tấc, không cho dùng từ 8 tấc trở xuống. Các quan văn võ không được mặc xiêm, tụng quan không được mặc thường “,…10.
Điều đáng lưu ý là áo dài Việt Nam không chỉ dành riêng cho phụ nữ mà cả đàn ông đều mặc, và cũng không chỉ là triều phục, lễ phục mà cả dân gian đều dùng. Nếu như áo dài phụ nữ được xem là nét tiêu biểu của văn hóa Việt Nam, thì áo dài đàn ông lại được xem xét để lựa chọn là “quốc phục” của nước nhà.
2. Áo dài Việt Nam qua các thời kỳ
Xét diễn trình biến đổi của áo dài Việt Nam, trên cơ sở tham cứu các nguồn tài liệu Việt Nam và Trung Hoa, có thể nhận ra rằng, trước khi có “Áo dài Võ Vương”, các loại áo dài giao lĩnh, viên lĩnh hay thụ lĩnh đều đã được người dân Việt sử dụng khá phổ biến11. Tùy theo hoàn cảnh mà lựa chọn áo kiểu nào. Từ thời Lý Trần, Triều đình đã có những quy định về triều phục hoặc trang phục của nhân dân để có sự phân biệt rõ cao thấp, sang hèn hoặc lễ phục. Thời này, áo viên lĩnh thường có bốn vạt ở trước như Chu Khứ Phi thời Tống đã mô tả: ” Những người còn lại, ngày thường trên thì vận áo Sam đen cổ tròn bó sát, bốn vạt như áo Bối Tử, gọi là áo Tứ Điên; dưới thì vận thường đen “12. Loại viên lĩnh này ta thấy còn được dùng ở thời Lê.
Ở thời Lê, Vua Lê Thái Tổ đã từng sai Nguyễn Trãi định chế áo mũ cho các quan lại nhưng chưa được thực hiện, đến năm 1437, Vua theo đề nghị của Lương Đăng quy định lại lễ phục đại triều và thường triều. Năm đó, Vua còn ” Ra lệnh cho người Minh phải mặc quần áo người Kinh“13. Thời Lê những quy định về màu sắc trang phục rất nghiêm ngặt, năm 1464, Triều đình quy định: ” Từ nhất phẩm đếm tam phẩm mặc áo màu hồng; tứ, ngũ phẩm mặc áo màu lục, còn thì đều mặc áo màu xanh“14. Những quy định về lễ phục chủ yếu là phẩm phục của Triều đình, còn trong dân chúng không thấy đề cập cụ thể về cách ăn mặc, ngoài những lệnh cấm những kiểu dáng, màu sắc chỉ dành riêng cho vua quan. Nhiều hình ảnh cho thấy, người dân vẫn mặc áo tứ thân, ngũ thân, kiểu giao lĩnh hoặc viên lĩnh kết hợp với váy, thường là phổ biến.
Gần đây, Trần Quang Đức với đề tài “Ngàn năm áo mũ” đã cung cấp nhiều tư liệu quý giúp chúng ta có cơ sở để nhìn lại cách ăn mặc của ông cha ta ngày xưa, từ đó có thể hình dung thêm về sắc diện của chiếc áo dài Việt Nam.
Dưới thời Lê Trung hưng, cách ăn mặc của dân ta không có sự thay đổi đáng kể. Giáo sĩ Borri đã có sự nhầm lẫn khi mô tả cách ăn mặc của người Việt thời này trong sách “Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine”, xuất bản tại Lille năm 1631 khi cho rằng, “Người ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu… Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt…“. Thật ra, các dải dài bên dưới thắt lưng mà Giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp dải lụa may chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngắn dần. Có thể nhận ra điều này ở bức tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ XVII ở chùa Dâu, Bắc Ninh mà có lẽ Borri đã có dịp mục diện.
Hình ảnh chiếc áo dài của phụ nữ Việt mà Borri nói đến cũng được nhiều người mô tả cách ăn mặc của phụ nữ Đàng Trong. Tuy nhiên, lối ăn mặc “mớ ba mớ bảy” lại là một thực tế ở vùng đất phía Nam nước ta vào giai đoạn sau khi “Áo dài Võ Vương” đã ra đời.
Áo dài tứ thân
Năm 1744, khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, tiến hành cải cách các mặt. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng như Đại Nam thực lục của Quốc sử quán Triều Nguyễn đều cho biết, năm ấy, trong dân gian truyền câu sấm “Bát thế hoàn Trung đô”, bèn đổi áo mũ, thay phong tục, để cho cả nước mở đầu buổi mới15, tức cải cách đất nước.
Áo dài năm thân
Nếu như chiếc áo tứ thân đi cùng với chiếc váy thì “Áo dài Võ Vương” mặc cùng chiếc quần hai ống. Có thể xem đây là bộ “quần chân áo chít” đầu tiên ở nước ta. Lúc đầu được dùng ở Đàng Trong rồi trở thành trang phục mang tính “bắt buộc” đối với phụ nữ cả nước dưới thời Minh Mạng. Ca dao thời ấy có câu:
” Tháng Tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng. Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang! “
Chả là phụ nữ Đàng Ngoài (và cả Đàng Trong trước đó), chỉ quen mặc váy, giờ phải mặc quần hai ống lấy làm không tiện. Nhưng rồi cũng quen dần.
Nhiều người cho rằng, “Áo dài Võ Vương” chịu ảnh hưởng bởi áo dài Trung Hoa. Cần lưu ý, áo dài có lễ phục và thường phục. Sự tham cứu Tam tài đồ hội của Minh triều được thể hiện khá rõ trong bộ lễ phục, còn áo dài thường phục là loại áo ôm sát thân mình (bì bào), là loại áo mà người Trung Hoa mãi đến đầu thế kỷ XX mới thấy xuất hiện với tên gọi là xường xám (sườn xám, gọi theo tiếng Quảng Châu, tức áo dài) ở Trùng Khánh và Thượng Hải. Sách Trung Quốc phục trang sử viết và minh họa về trang phục của người Trung Hoa từ thời Xuân Thu đến thập niên 1920, không thấy đề cập đến loại áo dài này.
Thoạt đầu, “Áo dài Võ Vương” dù gọn gàng hơn so với áo tứ thân, ngũ thân truyền thống, nhưng vẫn còn rộng rãi, lùng thùng, vì vậy, nó không ngừng được cách tân để ngày càng đẹp đẽ, hấp dẫn hơn.
Đầu thập niên 1930, họa sĩ Nguyễn Cát Tường tạo nên sự đột phá khi tung ra một kiểu áo dài trên cơ sở tham khảo chiếc áo của người châu Âu. Ông đã biến chiếc áo tứ thân chỉ còn hai vạt trước và sau, may nối vai, tay phồng, cổ lá sen,… màu sắc sặc sỡ, đặc biệt là ôm sát cơ thể, làm nổi rõ những đường cong gợi cảm của người phụ nữ mà các loại áo dài trước đó không có được. Áo được đặt tên là Áo dài Le Mur. Sự Âu hóa đã góp phần làm cho chiếc áo dài Việt Nam thêm phần độc đáo. Tuy vậy, bấy giờ Áo dài Le Mur bị dư luận cho là “lai căng”, nên nó chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943.
Từ năm 1934, họa sĩ Lê Phổ đã “khắc phục” những “hạn chế” của áo dài Le Mur. Những điểm nhấn từ Le Mur và áo tứ thân, ngũ thân được kết hợp một cách hài hòa để tạo thành một kiểu áo vạt dài vừa cổ kính vừa tân thời nên được người đương thời, nhất là giới nữ thời đó nhiệt liệt hoan nghênh. Có thể nói, Lê Phổ đã tạo được một điểm dừng cần thiết để từ đó, cái cốt cách Việt Nam luôn là nét chủ đạo để chiếc áo dài bước chân ra thế giới bên ngoài đầy sôi động.
Chiếc áo dài Lê Phổ tuy đã xác định được chỗ đứng trong xã hội, nhưng nó luôn được cách tân, biến đổi. Có thể lúc đầu gây “sốc”, nhưng rồi dần dần trở nên thích ứng với xu thế thời đại. Chẳng hạn Áo dài Trần Lệ Xuân ra đời vào cuối năm 1958, gây nên “tai tiếng” vì cái cổ áo khoét hở như chiếc thuyền và cách trang trí mới lạ, “ngược đời”. Có thể xem đây là một sự đột phá lần thứ hai. Tuy nhiên, Áo dài Trần Lệ Xuân bị xem là trái với thuần phong mỹ tục nước nhà và bị lên án gay gắt. Sang thập niên 1960, áo dài tay raglan ra đời gắn liền với tên tuổi của hiệu may Dung ở Dakao Sài Gòn. Loại áo dài Raglan đã khắc phục được nếp nhăn thường có hai bên nách của các kiểu áo dài trước đó. Cùng với nó là chiếc áo miniraglan, một phiên bản mới với áo ngắn tay. Cứ thế, áo dài không ngừng thay đổi: tay dài, tay ngắn, vạt dài, vạt ngắn, cổ cao, cổ thấp,… và cùng với nó là quần ống tóp, ống loe,…
Trước năm 1975, áo dài xuất hiện ở khắp mọi nơi: trong công sở, ở sân trường, ngoài phố chợ, ở đền miếu, chùa chiền,… ngoài việc đàn ông mặc áo dài trong các lễ nghi, đám tiệc,… phụ nữ hầu như mặc áo dài mỗi khi ra khỏi nhà, cả việc chợ búa (trừ việc đồng áng).
Một thời gian khá dài, do đời sống khó khăn, chiếc áo dài vắng bóng trong đời sống xã hội, để rồi lại bùng lên vào cuối thập niên 90 của thế kỷ trước. Với một sức mạnh tinh thần được hun đúc tự bao đời trong tiến trình lịch sử dân tộc, áo dài nhanh chóng lan tỏa trong đời sống xã hội với giá trị văn hóa ngày càng được nâng cao. Nó không dừng lại trong nước mà vượt biên giới quốc gia có mặt khắp nơi trên trường quốc tế.
Lời kết
Trước khi định hình thành nét đặc trưng trong nền văn hóa Việt Nam, chiếc áo dài phải trải qua bao thử thách. Như một sự sàng lọc tự nhiên, các yếu tố cả nội sinh lẫn ngoại sinh sẽ được giữ lại và kết tinh trong từng thớ vải, đường kim, trong từng nét phô, nét kín.
Giá trị không đổi của chiếc áo dài ngoài tính triết lý và nghệ thuật, còn ở chỗ nó góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa và tâm hồn Việt, khiến cho những ai mặc nó đều cảm thấy không thể làm điều phi nhân cách.
Hiện đại và truyền thống, cả hai, không thể nào thiếu một để chiếc áo dài luôn là biểu tượng đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Áo Dài Xưa Và Nay Có Gì Khác Biệt?
Như chúng ta đã biết, áo dài là trang phục truyền thống của nước ta đã có từ bao đời, cho đến nay vẫn được dùng như lễ phục. Người ta nói, áo dài hiện đại chúng ta biết đến ngày nay đã cách điệu và thay đổi rất nhiều so với áo dài ngày xưa. Thế nhưng ít ai biết được chúng thực sự khác biệt như thế nào? Ngày hôm nay, bạn có muốn cùng The Phann tìm hiểu lịch sử áo dài xưa và nay có gì khác biệt hay không?
Áo dài xưa và nay có gì khác biệt?
Áo dài Việt Nam đi qua từng thời kỳ
Đầu tiên, lịch sử áo dài Việt được biết đến là từ thời Nguyễn bắt nguồn từ áo tứ thân mặc với áo yếm, xẻ tà áo giao lĩnh buộc phía trước. Sau đó, áo tứ thân chuyển thành áo ngũ thân mặc cùng quần dài có 5 tà, 2 tà trước, 2 tà sau và 1 tà nằm dưới 2 tà trước.
Đến đầu thế kỷ 20, khi văn hóa phương Tây bắt đầu du nhập vào nước ta, áo dài bắt đầu được Âu hóa nhưng vẫn giữ nguyên vẹn linh hồn Việt. Lúc này, áo dài đã bắt đầu có 2 tà, xẻ và nhấn eo ôm vào cơ thể.
Áo dài ngày nay ngày càng được cách điệu nhiều hơn
Tuy nhiên, kiểu áo dài này mang nhiều đặc điểm của trang phục châu Âu như tay phồng, cổ bồng hay cổ gắn nơ gọi là áo dài Lemur.
Sau nhiều năm, chiếc áo dài lại tiếp tục được các họa sĩ thay đổi về thiết kế bỏ đi những chi tiết bị Âu hóa, đưa về áo dài cổ cao, cài nút bên phải.
Trong lịch sử, áo dài Việt Nam cũng đã từng trải qua nhiều thiết kế cách tân như áo dài Trần Lệ Xuan, áo dài chít eo, áo dài mini,… Tuy nhiên do không được nhiều người đón nhận nên vẫn quay về kiểu áo dài truyền thống cài nút một bên phải, tà dài, cổ cao như chúng ta đã thấy.
Về bản chất, áo dài nay vẫn được cách điệu dựa trên kiểu truyền thống
Áo dài xưa và nay khác biệt những gì?
Nếu so sánh áo dài xưa và nay, chúng ta sẽ thấy chúng được thay đổi dần về kiểu dáng từ cổ áo, tà áo cho đến nút áo, tay áo, màu sắc cũng dần đa dạng hơn.
Tuy nhiên đây đều là những thay đổi giúp áo dài trở nên hoàn thiện và thẩm mỹ hơn, cũng có phần hiện đại và phù hợp hơn với phái đẹp.
Những cải tiến trong thiết kế áo dài được mọi người đón nhận bởi nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống Việt Nam. Vẫn là tà áo dài tôn vinh nét đẹp hình thể, phù hợp mọi dịp lễ tết của đất nước.
Cùng chiêm ngưỡng các mẫu thiết kế áo dài hiện đại ấn tượng tại The Phann
Thông tin liên hệ:
Áo Dài ThePhann Việt Nam
Hotline: 0904.140.367
Email: thephannvietnam@gmail.com
Website: Thephannvietnam.com
Cập nhật thông tin chi tiết về Lịch Sử Áo Dài Việt Nam Qua Các Thời Kỳ – Áo Dài Xưa Và Nay trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!