Bạn đang xem bài viết Hai Phương Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 Khi đó ngày lao động được chia như sau:
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.
b) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:
Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:
Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.
* Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.
Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.
chúng tôi
Giá Trị Thặng Dư Là Gì? Phương Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư Tuyệt Đối Và Tương Đối
Nếu bạn thường xuyên đọc hoặc xem tin tức về kinh tế sẽ thấy người ta nhắc nhiều đến giá trị thặng dư. Chắc chắn đối với nhiều người, giá trị thặng dư sẽ là một điều gì đó rất trừu tượng và khó hiểu. Đại đa số đều không biết giá trị thặng dư là gì.
Học thuyết giá trị thặng dư được xem là phát minh quan trọng chỉ đứng thứ 2 sau biện luận duy vật lịch sử của Mác. Vậy giá trị thặng dư là gì? Về cơ bản giá trị thặng dư chính là sự phản ánh quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Việc sinh ra và chiếm đoạt giá trị thặng dư phản ánh bản chất quan hệ trong sản xuất tư bản chủ nghĩa (quan hệ bóc lột của nhà tư bản với người lao động làm thuê).
Giá trị thặng dư là gì?Giá trị thặng dư chính là giá trị do công nhân làm thuê lao động sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt hết. Đối với hoạt động sản xuất, nhà tư bản phải chi vào tư liệu sản xuất và mua sức lao động. Mục đích khi chi tiền là nhằm thu được một số tiền dôi ra ngoài số tiền mà họ đã chi trong quá trình sản xuất. Số tiền dôi ra chính là giá trị thặng dư.
Như vậy phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm hết được gọi là giá trị thặng dư.
Giá trị thặng dư được Mác nghiên cứu dưới góc độ hao phí lao động. Trong đó công nhân làm thuê sản xuất nhiều giá trị hơn chi phí được trả cho họ. Đây là yếu tố được quy định bởi tiền lương tối thiểu chỉ đủ cho họ sinh sống với tư cách người lao động. Đối với Mác sự bóc lột sức lao động chỉ có thể được loại bỏ khi nhà tư bản trả cho họ toàn bộ giá trị mới được tạo ra.
Hiện có 2 phương pháp chủ yếu để thu được giá trị thặng dư:
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đốiPhương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chính là kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng suất, giá trị và thời gian lao động tất yếu không đổi. Cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa chính là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được sử dụng phổ biến trong giai đoạn đầu chủ nghĩa tư bản. Đây là thời điểm lao động còn ở trình độ thủ công, năng suất lao động còn thấp. Lúc này bằng lòng tham vô hạn, các nhà tư bản giở mọi thủ đoạn kéo dài ngày lao động nhằm nâng cao khả năng bóc lột sức lao động công nhân làm thuê.
Tuy nhiên sức lực con người có hạn. Hơn nữa vì công nhân đấu tranh quyết liệt đòi rút ngắn ngày lao động nên các nhà tư bản không thể kéo dài ngày lao động vô thời hạn. Nhưng ngày lao động cũng không được rút ngắn đến mức bằng thời gian lao động tất yếu.
Một hình thức khác của phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chính là tăng cường độ lao động. Bởi vì tăng cường độ lao động cũng tương tự việc kéo dài thời gian lao động trong ngày nhưng thời gian lao động cần thiết không đổi.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đốiKhi độ dài ngày lao động không đổi, thời gian lao động cần thiết giảm sẽ tăng thời gian lao động thặng dư (thời gian sản xuất giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản).
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối là rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động. Từ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
Giá trị thặng dư siêu ngạchGiá trị thặng dư siêu ngạch chính là phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của xã hội. Nếu xét từng nhà tư bản xuất thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời. Tuy nhiên xét về toàn xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Do đó giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực thúc đẩy mạnh nhất cho các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Cả giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch đều dựa vào cơ sở tăng năng suất lao động. Tuy nhiên cả 2 khác nhau ở chỗ giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Trong khi giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên việc tăng năng suất lao động cá biệt.
Sau khi tìm hiểu giá trị thặng dư là gì (bỏ qua yếu tố bóc lột) bạn sẽ thấy cả 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối đều có thể áp dụng vào nền kinh tế. Cả 2 đều thúc đẩy nhằm tạo ra nhiều sản phẩm thặng dư cho xã hội. Đây chính là tiền đề để tái sản xuất mở rộng, phát triển quy mô và tăng trưởng kinh tế.
Phân Tích Quá Trình Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư Tuyệt Đối?
Trên thực tế nhà tư bản luôn luôn tìm cách nâng cao trình độ bóc lột để thu được thật nhiều giá trị thặng dư. Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.
– Khái niệm: Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư được tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động xã hội, trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: Giả sử ngày lao động là 8 giò, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
Nếu nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó ngày lao dộng được chia như sau:
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100%, thì bây giờ là 150%.
– Xu hướng của các nhà tư bản là ra sức kéo dài ngày lao động đến cực độ. Nếu có thể thì họ bắt công nhân làm 24 giờ một ngày. Họ đã bỏ tiền ra mua sức lao động trong một ngày thì họ muốn sử dụng hàng hoá mua được suốt cả ngày đó. Nhưng ngày lao động không thể kéo dài quá 24 giờ và không có một ai có thể làm việc được suốt 24 giờ. Vì người công nhân cần phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí…. để phục hồi sức khoẻ. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân.
– Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày lao động, còn giai cấp công nhân lại muốn rút ngắn thời gian lao động. Do đó, độ dài ngày lao động có thể co giãn và việc xác định độ dài ấy tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng trong cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp nói trên. Điểm dừng của độ dài ngày lao động là điểm mà ở đó lợi ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện theo một thoả hiệp tạm thời.
– Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản lại tìm cách tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động có nghĩa là chi phí nhiều sức lao dộng hơn trong một khoảng thời gian nhất định, nên vẻ thực chất cũng tương tự như kéo dài ngày lao động. Vì vậy, kéo dài thời gian lao động và tăng cường độ lao động là hai biện pháp để sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
chúng tôi
Sự Giống Và Khác Nhau Giữa Các Phương Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư Tuơng Đối, Tuyệt Đối Và Siêu
Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuát giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu; trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
· Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn thấp.
· Với lòng tham không đáy, nhà tư bản mọi cách kéo dài ngày lao động để nâng cao trình độ bóc lột. Nhưng do giới hạn về ngày tự nhiên, về sức lực con người nên không thể kéo dài vô hạn. Mặt khác, còn do đấu tranh quyết liệt những giai cấp công nhân đòi rút ngắn thời gian lao động cũng không thể rút ngắn chỉ bằng thời gian lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường lao động vì tăng cường lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày trong khi thời gian lao động càn thiết không thay đổi.
+ Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động, nhờ đó tăng thời gian loa động thặng dư lên trong điều kiện độ dài ngày lao động, cường độ lao động cũng như cũ.
· Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm bớt giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần thiết cho người công nhân. Muốn vậy, phải tăng năng suất lao động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất ra các tuw liệu sản xuất tiêu dùng.
– Giữa hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối có điểm giống nhau đều làm tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân không chỉ đủ nuôi sông mình, mà còn tạo ra phần thặng dư. Song, hai phương pháp này có sự khác nhau về cách thức làm tăng thời gian lao động thặng dư.
+ Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được do người áp dụng công nghẹ mới sớm hơn các xí nghiệp khác, làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Khi đa số các xí nghiệp đều đổi mới kỹ thuật và công nghệ thì giá trị thặng dư sieu ngạch của doanh nghiệp đó không còn nữa.
· Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, cục bộ. Nhưng xét về toàn bộ tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng thường xuyên. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
· Giá trị thăng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư tương đối giống nhau ở chỗ đều là tăng năng suất lao động. Vì vậy giá trị thặng dư siêu ngạch là biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau: giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt; còn giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động.
Cập nhật thông tin chi tiết về Hai Phương Pháp Sản Xuất Giá Trị Thặng Dư trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!