Xu Hướng 9/2023 # Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Văn Chương Đại Thi Hào Nguyễn Du # Top 12 Xem Nhiều | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Văn Chương Đại Thi Hào Nguyễn Du # Top 12 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Văn Chương Đại Thi Hào Nguyễn Du được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Tóm lược tiểu sử cuộc đời Nguyễn Du

Nguyễn Du (sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766? –1820[1]) tự là Tố Như (素如), hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc” và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới“. Ông có một cuộc đời vô cùng gian truân và cực khổ.

Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống. cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi).

Năm 1780 , khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh . Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên , không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây, nay thuộc Hà Nội).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:

Năm 1803 : đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh, Trung Quốc.

Năm 1805 : thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807 : làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809 : làm Cai bạ dinh Quảng Bình.

Năm 1813 : thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Sau khi đi sứ về vào năm 1814 , ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820. Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).

Sự nghiệp văn học của đại thi hào Nguyễn Du

Xét về nội dung, qua các sáng tác của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm, tức đề cao “tình”. Điều  quan trọng hàng đầu, là sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người nhỏ bé, bất hạnh (xem: Văn tế thập loại chúng sinh, Sở kiến hành, Thái Bình mại ca giả v.v.).

Cái nhìn nhân đạo này khiến ông được đánh giá là “tác giả tiêu biểu của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19”. Riêng với Truyện Kiều, kiệt tác này còn “thấm đẫm tinh thần ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp kì diệu của tình yêu lứa đôi.”

Tác phẩm bằng chữ Hán:

Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (NXB Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 NXB Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:

Thanh Hiên thi tập còn gọi là Thanh Hiền tiền hậu tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi, ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm

Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Tác phẩm bằng chữ Nôm:

Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:

Đoạn trường tân thanh  còn có tên gọi khác là Kim Vân Kiều truyện,(Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thúy Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”. Văn chiêu hồn (tức Văn tế thập loại chúng sinh, dịch nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), còn có tên gọi khác là Văn chiêu hồn, Văn tế chiêu hồn.

Vài nét về tác phẩm truyện Kiều – tác phẩm tiêu biểu nhất của đại thi hào Nguyễn Du

Đoạn trường tân thanh, thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát, gồm 3254 câu.

Câu chuyện dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một thi sĩ thời nhà Minh, Trung Quốc.

Tác phẩm kể lại cuộc đời, những thử thách và đau khổ của Thúy Kiều, một phụ nữ trẻ xinh đẹp và tài năng, phải hy sinh thân mình để cứu gia đình. Để cứu cha và em trai khỏi tù, cô bán mình kết hôn với một người đàn ông trung niên, không biết rằng anh ta là một kẻ buôn người, và bị ép làm kĩ nữ trong lầu xanh.

Tác phẩm Truyện Kiều có thể nói là đỉnh cao của ngôn từ Việt, sự kết tinh từ những tinh hoa nhất của văn học Việt Nam. Người ta vẫn thường nói truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn. Bởi vậy Nguyễn Du là đại diện xuất sắc cho nên văn học nước nhà.

Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới, là vì sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam.

Thảo Nguyên

Nguyễn Du – Tiểu Sử, Cuộc Đời Và Sự Nghiệp

NGUYỄN DU – TIỂU SỬ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

NGUYỄN DU – TIỂU SỬ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

I. Về con người và sự nghiệp.

Nguyễn Du (1765-1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng) dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc –Bắc Ninh. .Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.

Thuở nhỏ Nguyễn Du sống trong nhung lụa, nhưng cuộc sống này kéo dài không quá mười năm. Vì 10 tuổi đã mồ côi cha, năm 13 tuổi, mồ côi mẹ, ông và các anh em ruột phải đến sống với người anh cả khác mẹ là Nguyễn Khản (khi ấy ông Khản đã hơn Nguyễn Du 31 tuổi)).

Năm 1780 , khi ấy Nguyễn Du mới 15 tuổi thì xảy ra “Vụ mật án Canh Tý”: Chúa Trịnh Sâm lập con thứ là Trịnh Cán làm thế tử, thay cho con trưởng là Trịnh Tông. Ông Khản giúp Trịnh Tông, việc bại lộ, bị giam. Đến khi Trịnh Tông lên ngôi, ông Khản được cử lên làm Thượng thư Bộ Lại và Tham tụng. Quân lính khác phe (sử gọi là “kiêu binh”) không phục, kéo đến phá nhà, khiến ông Khản phải cải trang trốn lên Sơn Tây sống với em là Nguyễn Điều rồi về quê ở Hà Tĩnh . Thế là anh em Nguyễn Du từ bấy lâu đã đến nương nhờ ông Khản, mỗi người phải mỗi ngã.

Năm 1783 , Nguyễn Du thi Hương đỗ tam trường (tú tài), sau đó không rõ vì lẽ gì không đi thi nữa. Trước đây, một võ quan họ Hà (không rõ tên) ở Thái Nguyên , không có con nên đã nhận ông làm con nuôi. Vì thế, khi người cha này mất, Nguyễn Du được tập ấm một chức quan võ nhỏ ở Thái Nguyên.

Năm 1786 , Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà .

Năm 1789 , Nguyễn Huệ , một trong ba thủ lĩnh của nhà Tây Sơn đã kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi mấy vạn quân Thanh sang tiến chiếm Đại Việt . Nguyễn Du cũng chạy theo vua Lê Chiêu Thống (1766-1793) nhưng không kịp, đành trở về quê vợ , quê ở Quỳnh Côi ở Thái Bình , sống nhờ nhà người anh vợ là danh sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?).

Được vài năm, Nguyễn Du về Nghệ An. Năm 1796 , nghe tin ở Gia Định , chúa Nguyễn Ánh (1762-1819) đang hoạt động mạnh, ông định vào theo, nhưng chưa đi khỏi địa phận Nghệ An thì đã bị quân Tây Sơn do tướng Nguyễn Thuận chỉ huy, bắt giữ ba tháng. Trở về Tiên Điền (Hà Tĩnh), ông sống chật vật một thời gian dài cho đến mùa thu năm 1802 , khi chúa Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long , thì ông được gọi ra làm quan cho nhà Nguyễn.

Năm 1802, ông nhậm chức Tri huyện tại huyện Phù Dung (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên ). Tháng 11 cùng năm, đổi làm Tri phủ Thường Tín ( Hà Tây , nay thuộc Hà Nội ).

Kể từ đó, Nguyễn Du lần lượt đảm đương các chức việc sau:

Năm 1803 : đến cửa Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh , Trung Quốc .

Năm 1805 : thăng hàm Đông Các điện học sĩ.

Năm 1807 : làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải Dương.

Năm 1809 : làm Cai bạ dinh Quảng Bình .

Năm 1813 : thăng Cần Chánh điện học sĩ và giữ chức Chánh sứ đi Trung Quốc.

Sau khi đi sứ về vào năm 1814 , ông được thăng Hữu tham tri Bộ Lễ.

Năm 1820 , Gia Long mất, Minh Mạng (1791-1840) lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người lúc bấy giờ) ở kinh đô Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn tức 18 tháng 9 năm 1820 . Lúc đầu (1820), Nguyễn Du được táng ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền , tỉnh Thừa Thiên . Bốn năm sau mới cải táng về Tiên Điền (Hà Tĩnh).

Với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học nước nhà và sự phát triển văn hóa của nhân loại, tháng 12/1964, tại Berlin (Đức), Hội đồng Hòa bình thế giới quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du (1675-1965) . Ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) họp ở Paris đã chính thức vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới.

Về gia đình và dòng họ

Thời Lê sơ, họ Nguyễn của Nguyễn Du vốn ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội). Bấy giờ họ này có một người là Nguyễn Thiến, đậu trạng nguyên dưới thời nhà Mạc (1532), sau theo giúp nhà Lê, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại, Đông các đại học sỹ, được phong tước Thư Qụân Công. Ông có hai người con trai là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn, đều được phong tước công. Gặp hoạ, Nguyễn Nhiệm, con Nguyễn Miễn trốn được, chạy vào làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh mai danh ẩn tích và sinh cơ lập nghiệp ở đấy. Bấy giờ vùng này còn hết sức hoang vắng. Người địa phương không biết tên, gọi ông là Nam Dương công. Đó là ông tổ của họ Nguyễn làng Tiên Điền. Từ đời Nam Dương công đến đời Nguyễn Nghiễm, ông thân sinh của Nguyễn Du, tất cả là sáu đời.

Nguyễn Nghiễm, cha Nguyễn Du sinh ngày 14 tháng 3 nhuận năm Mậu tý, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ tư, tức ngày 14/5/1708. Ông thông minh học rộng, làm quan từng giữ chức Tể tướng trong triều đình. Lúc ấy người con đầu của ông là Nguyễn Khản được bổ chức Nhập thị bồi tụng, hai cha con cùng ở trong chính phủ. Ông mất ngày 17 /11 năm Ất mùi, tức ngày 07/0/1776, có cả thảy tám người vợ và hai mươi mốt người con, cả trai lẫn gái.

Mẹ Nguyễn Du là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, tên là Trần Thị Tần, con gái một ông làm chức câu kê (kế toán), người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Bà sinh ngày 03 tháng 7 năm Canh thân, niên hiệu Cảnh Hưng, tức ngày 24/8/1740, trẻ hơn chồng mười hai tuổi. Mẹ Nguyễn Du sinh được tất cả năm người con, bốn trai một gái. Năm 1775 người con đầu của bà là Nguyễn Trụ mất mới mười tám tuổi, năm sau chồng mất. Hai cái tang kế tiếp nhau trong hai năm liền làm cho bà đau buồn, lâm bệnh, và hai năm sau khi chồng mất, bà cũng qua đời ngày 06/7 năm Mậu tuất, tức ngày 17/8/1778, mới ba mưoi chín tuổi.

Gia đình cũng như dòng họ Nguyễn Du có rất nhiều người làm quan dưới triều Lê – Trịnh. Người địa phương có câu ca dao nói về dòng họ này:

“Bao giờ ngàn Hống hết cây,

Sông Rum hết nước, họ này hết quan”.

Nhưng gia đình Nguyễn Du không phải chỉ có nhiều người làm quan, mà còn có nhiều người viết sách, làm văn, nghĩa là một gia đình có truyền thống về văn học. Nguyễn Quỳnh ông nội Nguyễn Du là một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh Dịch. Nguyễn Nghiễm một sử gia, đồng thời là một nhà thơ. Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du giỏi thơ Nôm, hay làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm. Tương truyền Nguyễn Khản là một trong những người có dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra tiếng Việt. Rồi Nguyễn Đề anh cùng mẹ với Nguyễn Du, Nguyễn Thiện cháu gọi Nguyễn Du bằng chú ruột, Nguyễn Hành em ruột Nguyễn Thiện đều là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng.

Các tác phẩm của Nguyễn Du

Qua các tác phẩm của Nguyễn Du, nét nổi bật chính là sự đề cao xúc cảm. Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

Chính trên cơ sở này mà trong thơ Nguyễn Du luôn luôn vang lên âm thanh, bừng lên màu sắc của sự sống, hằn lên những đường nét sắc cạnh của một bức tranh hiện thực đa dạng. Và giữa những âm thanh, màu sắc, đường nét vô cùng phong phú đó, Nguyễn Du hiện ra: vừa dạt dào yêu thương, vừa bừng bừng căm giận. Đây là chỗ đặc sắc và cũng là chỗ tích cực nhất trong nghệ thuật của Nguyễn Du. Từ thơ chữ Hán đến truyện Kiều, nó tạo nên cái sức sống kỳ lạ ở hầu hết tác phẩm của ông.

Sáng tác của Nguyễn Du được lưu hành ngay từ lúc ông còn sống. Tương truyền Truyện Kiều được Phạm Quý Thích nhuận sắc và cho in ở phố Hàng Gai – Hà Nội lúc ấy. Sau khi Nguyễn Du mất chỉ vài chục năm, vua Tự Đức từng có sớ cho quan tỉnh Nghệ An thu thập tất cả di cảo của Nguyễn Du để đưa về kinh. Từ đó đến nay, việc sưu tập, nghiên cứu phổ biến di sản văn học của Nguyễn Du vẫn còn tiếp tục. Còn có những ý kiến hồ nghi tác giả một số bài thơ chữ Hán vẫn được coi là của Nguyễn Du. Việc xác định thời điểm ra đời của các tác phẩm chưa được giải quyết, kể cả thời điểm Nguyễn Du viết Truyện Kiều. Mặc dù đã mất nhiều công sức, nhưng các ý kiến trong giới nghiên cứu vẫn còn rất khác nhau.

Tác phẩm bằng chữ Hán

Những tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du rất nhiều, nhưng mãi đến năm 1959 mới được ba nhà nho là: Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới thiệu tập: Thơ chữ Hán Nguyễn Du (Nhà xuất bản Văn hóa, 1959) chỉ gồm có 102 bài. Đến năm 1965 Nhà xuất bản Văn học đã ra Thơ chữ Hán Nguyễn Du tập mới do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp, gồm 249 bài như sau:

Thanh Hiên thi tập (Tập thơ của Thanh Hiên) gồm 78 bài, viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.

Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài, viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh.

Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc) gồm 131 bài thơ, viết trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc.

Tác phẩm bằng chữ Nôm

Những tác phẩm bằng chữ Nôm của Nguyễn Du gồm có:

Đoạn trường tân thanh (Tiếng than van mới đau lòng đứt ruột. Tên phổ biến là Truyện Kiều), được viết bằng chữ Nôm, gồm 3.254 câu thơ theo thể lục bát. Nội dung của truyện dựa theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Nội dung chính của truyện xoay quanh quãng đời lưu lạc sau khi bán mình chuộc cha của Thuý Kiều, nhân vật chính trong truyện, một cô gái có tài sắc. Về thời điểm sáng tác, Từ điển văn học (bộ mới) ghi: “Có thuyết cho rằng Nguyễn Du viết ra sau khi ông đi sứ Trung Quốc (1814-1820), có thuyết cho nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng thời gian làm Cai bạ ở Quảng Bình (1804-1809). Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn”. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Đến nay, Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng trên thế giới, trong đó có tiếng Pháp, Anh, Nga, Hàn, Nhật…

Hoàng Thị Lâm Nho

Đáp Án Cuộc Thi Tìm Hiểu Về Đại Thi Hào Nguyễn Du

Cuộc thi “Tìm hiểu về Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều”

Bài dự thi tìm hiểu về Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều

Câu 1. Trình bày ngắn gọn những hiểu biết của bạn về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du. Hãy cho biết việc tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du có ý nghĩa gì cho việc đọc hiểu các sáng tác của Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng?

Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên sinh ngày 3-1-1766 mất năm 1820. Nguyễn Du là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Quê ông ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Chính yếu tố này đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngòi bút của Nguyễn Du về hiện thực đời sống. Sự nghiệp văn học của ông gồm những tác phẩm có giá trị cả về chữ Hán và chữ Nôm. Tiêu biểu như “Thanh Hiên thi tập”, “Đoạn trường tân thanh”,…

– Việc tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp của đại thi hào Nguyễn Du có ý nghĩa quan trọng cho việc đọc hiểu các sáng tác của Nguyễn Du nói chung và Truyện Kiều nói riêng:

+ Giúp chúng ta hình dung rõ nét về đặc điểm sáng tác của Nguyễn Du, đó là: thể hiện tư tưởng, tình cảm, tính cách của tác giả.

+ Hơn thế nữa, các tác phẩm mà đặc biệt là Truyện Kiều đều thể hiện tư tưởng nhân đạo rõ nét.

+ Qua đó, chúng ta hiểu được sâu sắc nguyên nhân tại sao các tác phẩm mà ông đưa đến cho bạn đọc đều thu hút và thành công đến thế.

Câu 2. Hãy viết bài văn thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du và trình bày ngắn gọn những sáng tạo nổi bật của tác giả thể hiện trong kiệt tác Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (khoảng 800 từ).

Một vấn đề then chốt trong nghiên cứu Truyện Kiều hiện nay là xác định tính sáng tạo của Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm sáng tác dựa vào cốt truyện và nhân vật của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân, nhưng lại trở thành một kiệt tác nghệ thuật vô song.

Con đường duy nhất để giải quyết vấn đề là khám phá cái thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du được xây dựng trên một cốt truyện có sẵn đó. Truyện Kiều của Nguyễn Du mang quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Du, một quan niệm thể hiện cách nhìn, cách cảm, hệ thống giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của ông gắn liền với truyền thống văn hoá dân tộc.

Truyện Kiều của Nguyễn Du bảo tồn được phần lớn tinh hoa của nguyên bản tiểu thuyết Trung Quốc tuy có tăng giảm về nội dung và nghệ thuật của nguyên tác, song phần nhiều vẫn bảo tồn được, vì vậy có cống hiến cho sự giao lưu văn hoá giữa Trung Quốc và Việt Nam. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm đáng được khẳng định. Truyện Kiều của Trung Quốc bị mai một, thậm chí bị đánh giá thấp trong thời gian dài. Hiện tượng kỳ lạ đó chứng tỏ chúng ta vẫn còn thiếu nhận thức đầy đủ về kho báu văn học nghệ thuật phong phú mà tổ tiên để lại cho chúng ta; công tác nghiên cứu văn học cổ đại về cơ bản vẫn dừng ở một số ít tác giả và tác phẩm nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn mà chưa hứng thú bao nhiêu với tác giả và tác phẩm loại hai. Việc nghiên cứu cô lập đó không thể thích hợp với tình hình phát triển của học thuật hiện nay. Vì vậy, việc đi sâu vào công tác nghiên cứu tiểu thuyết quý giá cuối đời Minh đầu đời Thanh có tác dụng gợi mở quan trọng nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu toàn bộ văn học cổ điển của nước ta. Tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân cần được đánh giá lại ảnh, hưởng quan trọng của nó trong lịch sử văn học Trung Quốc và lịch sử văn học thế giới cần được thừa nhận và đánh giá công bằng. Mệnh đề “tiểu thuyết tài tử giai nhân” không thể khái quát một cách khoa học tất cả tiểu thuyết bạch thoại của các văn nhân mà tuyến cốt truyện là tình yêu và hôn nhân. Cần phân tích so sánh nhiều tác phẩm với nhau, nhận thức lại bộ mặt vốn có của số tiểu thuyết này, bổ sung những đoạn còn yếu trong lịch sử tiểu thuyết truyền thống. Chúng ta thấy rất rõ hai tác phẩm này có cùng một cốt truyện, cùng một hệ thống nhân vật và cả kết cấu tự sự. Thế nhưng Nguyễn Du đã đem tài năng của mình vào để thay đổi số phận của tác phẩm. Ông biến nó thành viên ngọc sáng của phương Đông, trải qua bao thế kỉ vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn học.Nguyễn Du thực sự đã thay một tấm áo mới cho tác phẩm. Những cái mới trong Truyện Kiều mà Thanh Tâm Tài Nhân đã không làm được trong Kim Vân Kiều truyện của mình có phải là nguyên nhân chính của sự khác biệt? Một bên là văn xuôi tự sự một bên là truyện thơ – thể loại khác nhau thì thông điệp nghệ thuật làm sao có thể giống nhau? Rõ ràng truyện thơ có nhiều ưu thế hơn hẳn trong việc thể hiện cảm xúc, đồng thời nó cũng dễ chạm vào trái tim bạn đọc hơn là ngôn ngữ của một cuốn tiểu thuyết. Không chỉ thế Nguyễn Du đã đem thiên nhiên vào trong tác phẩm của mình – một thiên nhiên thực nhưng cũng có khi là thiên nhiên của cảm xúc, tâm tưởng. Trong khi đó Kim Vân Kiều truyện hoàn toàn vắng bóng thiên nhiên. Nguyễn Du xây dựng lại các tình tiết cũng như hình tượng nhân vật của nguyên tác cho phù hợp với suy nghĩ, cảm nhận của mình. Đó là cái riêng và cũng là cái sáng tạo làm nên sự khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm. Công lao của Thanh Tâm Tài Nhân không nhỏ. Không có Thanh Tâm Tài Nhân thì ắt hẳn không thể có Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng cũng lại phải nói cho công bằng, chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày một nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để những học giả như ông Đồng Văn Thành cố gắng làm cho Kim Vân Kiều truyện được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm tới lại. Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là tác phẩm tiểu thuyết chương hồi thuộc thể tài văn xuôi, kết cấu theo thời gian, theo trình tự diễn biến của các sự kiện, theo quá trình hành động của các nhân vật. Nó thiên về mô tả sự kiện, đi sâu miêu tả thực tại, khắc họa chân dung nhân vật một cách cụ thể – điều mà đôi khi ta cảm thấy hơi khó chịu. Cũng như các tiểu thuyết chương hồi khác, tác phẩm gần như không đề cập đến diễn biến tâm lý nhân vật mà chỉ có các biến cố, hành động của nhân vật. Tác phẩm lại đặc biệt coi trọng mâu thuẫn xung đột, tập trung mô tả nhiều chi tiết để tô đậm một tính cách nào đấy của nhân vật. Diện mạo nhân vật gần như chỉ là những nét chấm phá chứ không miêu tả cụ thể. Trong tác phẩm, tác giả cũng đã đưa vào những đoạn thơ, bài phú miêu tả thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy lại bị tách rời khỏi cốt truyện và đôi khi lại không gắn bó gì với tâm trạng của nhân vật. Trong khi đó, Truyện Kiều lại là một cuốn truyện thơ, một tác phẩm văn học vừa cổ điển vừa hiện đại, có sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Các nhân vật trong tác phẩm, các vấn đề xã hội không đợi tác giả tự thuật lại nhiều mà tự nó có thể tự hiện diện, tự bộc lộ một cách tinh vi. Nguyễn Du đã biến thể loại tiểu thuyết khô khan thành thơ lục bát – thể thơ của riêng dân tộc ta,mục đích là để thơ ca đi vào đời sống con người, thân thuộc, giản dị.. Nguyễn Du đã rất tài tình khi sử dụng tất cả những gì gần gũi nhất để xây dựng nên những hình tượng nghệ thuật đẹp đẽ. Nguyễn Du chỉ dựa vào cái sườn của cốt truyện văn xuôi của Thanh Tâm Tài Nhân mà sang tạo ra hẳn một thi phẩm của riêng mình. Cần phải nói rõ ràng rằng, trong lao động nghệ thuật thì sự sáng tạo của người nghệ sĩ là điều quan trọng hơn cả, không chỉ sáng tạo ở số liệu mà cái quan trọng hơn là cách nhào nặn dữ liệu để tạo nên những hình tượng nghệ thuật, những nhân vật điển hình có cá tính và có ý nghĩa khái quát. Trải qua hàng trăm năm, với biết bao thăng trầm của cuộc sống, Truyện Kiều vẫn nóng bỏng hơi thở của nó, vẫn trường tồn sức sống trong lòng mọi thế hệ độc giả.

Đóng góp của Thanh Tâm Tài Nhân là không nhỏ, nhưng chúng ta cũng không thể không thừa nhận rằng chính Nguyễn Du mới là người mang đến thành công rực rỡ cho Truyện Kiều, nâng Truyện Kiều lên trở thành tiếng nói của dân tộc. .

Câu 3. Bạn cảm nhận như thế nào về sức sống của Truyện Kiều trong dòng chảy văn hóa, văn học dân tộc? Theo bạn, chúng ta cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy giá trị của Truyện Kiều của Nguyễn Du trong tình hình hiện nay?

– Đối với bản thân tôi, sức sống của Truyện Kiều trong dòng chảy văn hóa, văn học dân tộc là vô cùng mãnh liệt. Bởi lẽ mặc dù Truyện Kiều được ra đời cách đây rất lâu nhưng hiện giờ, trong cuộc sống nhộn nhịp cùng thời kì hội nhập quốc tế khiến con người ta vô tình quên đi những giá trị tinh hoa của các tác phẩm văn học, thơ ca thì “Truyện Kiều” vẫn ở đó, còn lại và đọng lại mãi trong người dân đất Việt. Hơn thế nữa, sức sống của “Truyện Kiều” không chỉ ở biên giới của một quốc gia mà nó còn ở cả khắp các nước trên thế giới.

– Theo tôi, chúng ta cần phải làm những việc sau đây để giữ gìn và phát huy giá trị của Truyện Kiều của Nguyễn Du trong tình hình hiện nay:

+ Phát huy giá trị của “Truyện Kiều” ra khắp các nước trên thế giới bằng cách dịch nó ra nhiều thứ tiêng khác nhau.

+ Tuyên truyền ý nghĩa to lớn mà tác phẩm này mang lại.

+ Gìn giữ nó, tuyệt đối không để nó bị đánh cắp, sao chép bản quyền và bị vùi lấp bởi bụi thời gian.

Câu 4. Theo bạn, việc tổ chức cuộc thi: “Tìm hiểu về Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều” có ý nghĩa như thế nào trong dịp kỷ niệm 255 năm Ngày sinh và tưởng niệm 200 năm Ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820)?

– Cuộc thi nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh sinh viên về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động kỉ niệm 255 năm Ngày sinh, tưởng niệm 200 năm Ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820), khẳng định công lao của ông cho đất nước và nhân loại, từ đó giáo dục truyền thống yêu nước.

– Cuộc thi làm chúng ta nhớ đến công lao to lớn của Nguyễn Du trong công cuộc đóng góp lớn về phát triển và sáng tác đặt nền móng cho thơ ca Việt Nam

– Việc tổ chức cuộc thi có thể làm cho chúng ta có thể tìm hiểu sâu rộng hơn về Nguyễn Du và những tác phẩm nổi tiếng của ông, sau đó có thể học hỏi và chỉ dạy cho những người khác về kĩ thuật làm thơ của ông, và nó có thể đem lại ấn tượng mạnh cho những thế hệ đời sau về và hình tượng cao cả của ông.

Mời các bạn tham khảo các bài khác trong mục Tài liệu.

Tổ Chức Cuộc Thi “Tìm Hiểu Về Thân Thế, Sự Nghiệp Đại Thi Hào Nguyễn Du Và Tác Phẩm Truyện Kiều”

Ngày 20/5/2023, Ban Tổ chức Cuộc thi “Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều” ban hành thể lệ và câu hỏi Cuộc thi.

Theo đó, mục đích của cuộc thi nhằm nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc cho các thế hệ nhân dân; động viên, tập hợp các tổ chức, lực lượng xã hội trong và ngoài tỉnh tích cực tham gia tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều; qua đó góp phần bảo tồn và phát huy, khai thác giá trị di sản của Truyện Kiều và Nguyễn Du; làm cho mọi người dân thêm hiểu, tự hào, trân trọng lịch sử, văn học, văn hóa dân tộc.

Đối tượng dự thi là tất cả đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh.

Yêu cầu đối với bài dự thi là bài dự thi được thực hiện bằng tiếng Việt, viết tay trên giấy A4; đánh số trang theo thứ tự. Trường hợp bài dự thi có nhiều trang phải đóng lại thành quyển. Ngoài trang bìa ghi rõ Bài dự thi “Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều”; họ tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính, dân tộc, địa chỉ (nơi ở, nơi học tập hoặc nơi công tác), số điện thoại của người dự thi.

Cơ cấu giải thưởng là về giải tập thể gồm 1 giải nhất: 5.000.000 đồng, 1 giải nhì: 3.000.000 đồng, 2 giải ba, mỗi giải: 2.000.000 đồng. Giải cá nhân: 1 giải đặc biệt: 10.000.000 đồng; 1 giải nhất: 5.000.000 đồng; 3 giải nhì, mỗi giải: 3.000.000 đồng; 5 giải ba, mỗi giải: 2.000.000 đồng; 10 giải khuyến khích, mỗi giải: 1.000.000 đồng. Ngoài ra, các bài dự thi đạt giải nhất, giải nhì, giải ba được đưa vào trưng bày tại Khu lưu niệm Nguyễn Du.

Nội dung câu hỏi: Người dự thi viết bài thi bằng tiếng Việt, trả lời 5 câu hỏi:

1. Nêu những nét chính về thân thế, sự nghiệp của Đại thi hào Nguyễn Du. Các yếu tố quê hương, gia đình, thời đại đã ảnh hưởng như thế nào đến sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du?

2. Tóm tắt tác phẩm Truyện Kiều trong khoảng 500 từ. Hãy trình bày ngắn gọn những giá trị đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của kiệt tác này?

3. Ngoài kiệt tác Truyện Kiều, hãy nêu tên và nội dung một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Du mà bạn biết?

4. Hãy cho biết sức lan tỏa của Truyện Kiều trong đời sống xã hội từ trước đến nay?

5. Cảm nhận của bạn về cuộc thi “Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều”, cũng như việc kỷ niệm 250 năm Ngày sinh và vinh danh Danh nhân văn hóa thế giới – Đại thi hào Nguyễn Du?

Địa chỉ nhận bài thi: Đối với khối học sinh: Do Sở Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo và hướng dẫn. Đối với khối đoàn viên (ngoài các trường học), sinh viên: Do Tỉnh đoàn Hà Tĩnh chỉ đạo và hướng dẫn. Người dự thi thuộc các khối khác: sinh sống, làm việc trên địa bàn nào thì gửi bài về Phòng Văn hóa – Thông tin các huyện, thành phố, thị xã đó. Các đối tượng còn lại: Gửi bài trực tiếp về Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh, số 18, Đại lộ Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường Nguyễn Du, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Thời gian nhận bài thi, tổng kết và trao giải: Thời gian kết thúc nhận bài dự thi: trước 17h ngày 30/9/2023 (theo dấu Bưu điện). Tổng kết và trao giải: trước ngày 30/10/2023.

Trao Giải Cuộc Thi “Tìm Hiểu Về Thân Thế, Sự Nghiệp Đại Thi Hào Nguyễn Du Và Tác Phẩm Truyện Kiều”.

Tối 10/10, Sở VHTT&DL Hà Tĩnh tổ chức trao giải cuộc thi “Tìm hiểu về thân thế, sự nghiệp Đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều”. Bí thư Tỉnh ủy Võ Kim Cự, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Thiện và Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Đặng

  Kết quả, Ban tổ chức đã trao cho giải cho các tập thể: giải nhất cho UBND huyện Nghi Xuân; giải nhì cho UBND huyện Lộc Hà; giải ba cho UBND TP Hà Tĩnh, UBND huyện Hương Khê, UBND thị xã Hồng Lĩnh và nhóm trinh sát  Học viện an ninh nhân dân. Đối với giải các nhân: giải nhất cho Hồ Thị Xuân Hồng ở Xuân Giang, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; giải Nhì cho: Thiều thị Chiên – Sở Tư pháp Hà Tĩnh, Nguyễn Thị Thanh Lý – Huyện đoàn Lộc Hà , Hà Tĩnh và Trần Đức Minh – trường THCS Phổ Hải, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; 05 giải Ba cho Phan Ngọc Thùy Chi – Sở Tư pháp Hà Tĩnh, Nguyễn Tuấn Anh – Hương Khê, Hà Tĩnh, Trần Thị Thanh Huyền – Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Đặng Công Chính – Lộc Hà, Hà Tĩnh, Lê Thị Bích Hợi – Lộc hà, Hà Tĩnh và 22 giải khuyến khích.   Cuộc thi đã góp phần nâng cao nhận thức, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống cán bộ, đoàn viên, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân trong việc bảo tồn và phát huy, khai thác giá trị di sản Nguyễn Du để lại và kiệt tác truyện Kiều – tập đại thành của nền văn học Việt Nam.   Hơn 2 vạn bài dự thi là những bông hoa tươi thắm mà hậu thế dâng lên  Đại thi hào Nguyễn Du nhân ngày  lễ kỷ niệm về Người.    

Truyện “Kiều” Của Đại Thi Hào Nguyễn Du

* * * Đoạn 001 – Đoạn 002 – Đoạn 003 – Đoạn 004 – Đoạn 005

. . . . Đoạn 006 – Đoạn 007 – Đoạn 008 – Đoạn 009 – Đoạn 010

* * * Đoạn 011 – Đoạn 012 – Đoạn 013 – Đoạn 014 – Đoạn 015

. . . . Đoạn 016 – Đoạn 017 – Đoạn 018 – Đoạn 019 – Đoạn 020

* * * Đoạn 021 – Đoạn 022 – Đoạn 023 – Đoạn 024 – Đoạn 025

. . . . Đoạn 026 – Đoạn 027 – Đoạn 028 – Đoạn 029 – Đoạn 030

* * * Đoạn 031 – Đoạn 032 – Đoạn 033 – Đoạn 034 – Đoạn 035

. . . . Đoạn 036 – Đoạn 037 – Đoạn 038 – Đoạn 039 – Đoạn 040

* * * Đoạn 041 – Đoạn 042 – Đoạn 043 – Đoạn 044 – Đoạn 045

. . . . Đoạn 046 – Đoạn 047 – Đoạn 048 – Đoạn 049 – Đoạn 050

* * * Đoạn 051 – Đoạn 052 – Đoạn 053 – Đoạn 054 – Đoạn 055

. . . . Đoạn 056 – Đoạn 057 – Đoạn 058 – Đoạn 059 – Đoạn 060

* * * Đoạn 061 – Đoạn 062 – Đoạn 063 – Đoạn 064 – Đoạn 065

. . . . Đoạn 066 – Đoạn 067 – Đoạn 068 – Đoạn 069 – Đoạn 070

* * * Đoạn 071 – Đoạn 072 – Đoạn 073 – Đoạn 074 – Đoạn 075

. . . . Đoạn 076 – Đoạn 077 – Đoạn 078 – Đoạn 079 – Đoạn 080

* * * Đoạn 081 – Đoạn 082 – Đoạn 083 – Đoạn 084 – Đoạn 085

. . . . Đoạn 086 – Đoạn 087 – Đoạn 088 – Đoạn 089 – Đoạn 090

* * * Đoạn 091 – Đoạn 092 – Đoạn 093 – Đoạn 094 – Đoạn 095

. . . . Đoạn 096 – Đoạn 097 – Đoạn 098 – Đoạn 099 – Đoạn 100

: viết Truyện Kiều , Nguyễn Du dựa vào cốt chuyện Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân ,1 t/g Trung Quốc sống ở xv . Từ 1 t/p xuôi , chữ Hán , viết theo kiểu tiểu thuyết chuyển hồi từ 1 câu chuyện tình bình thường, nghĩ đã bằng cảm hứng của mình , cảm hứng về xã hội và con người Việt Nam .Biến t/p ấy trở thành 1 ” Thiên cổ tình thư ‘. Ban đầu ông đặt tên cho nó là ” Đoạn Trường Tân Thanh ” ( tạm dịch là Tiếng kêu đứt ruột hay tiếng nói mới về nỗi khổ đau ). Sau này người ta quen gọi là Truyện Kiều .

Tác phẩm dài 3254 câu thơ , viết theo thể lục bát có kết cấu 3 phần .

a) Giá trị lớn nhất của truyện Kiều là giá trị nhân đạo . Giá trị ấy được biểu hiện ở 2 phương diện chính :

* Truyện Kiều là lời ca tình yêu tự do khát vọng công lý , ngợi ca vẻ đẹp , phẩm chất con người .

_ Viết Truyện Kiều , Nguyễn Du đã thể hiện ước mơ đẹp đẽ của mình về 1 tình yêu lứa đôi tự do , hồn nhiên , trong sáng mà nhất mực thủy chung.

Trong 1 xã hội mà quan niệm hôn nhân phong kiến còn đang hết sức khắc nghiệp , kìm hãm , trói buộc con người . Vì thế mồi tình Kim _ Kiều có thể xem như 1 bài ca tuyệt đẹp , 1 bản tình ca đầy trong sáng và thơ mộng, lần đầu tiên được thể hiện qua tác phẩm VH DT.

_ Viết truyện Kiều, Nguyễn Du còn thể hiện khát vọng về công lý , dân chủ cho con người giữa 1 XH bất công tù túng đầy ức chế tàn bạo . Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Từ Hải như 1 khát vọng công lý tự do ấy . Từ Hải là 1 anh hùng hảo hán , ngàng tàn , dám 1 mình chống lại với cả trật tự XH phong kiến lúc bấy giờ .Chỉ có Từ Hải mới đem cho Kiều 1 cuộc đời hạnh phúc . Từ Hải chính là ánh sao băng rực sáng trên bầu trời đen tối . Từ Hải chính là nhân vật lí tưởng cho khát khao ước mơ của Nguyễn Du về công bằng , tự do .

_ Viết Truyện Kiều , Nguyễn Du đồng thời ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người . Thúy Kiều tượng trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam : vẻ đẹp nhan sắc , tài hoa , trí tuệ thông minh và 1 trái tim trung hậu . Vẻ đẹp đó còn được thể hiện ở nhân vật Từ Hải . Từ Hải không chỉ biều tượng cho công lý tự do vùng vẫy ngang dọc mà còn là hiện thân của đức thủy chung , lòng nhân ái và nhất là lòng tôn trọng phẩm giá con người .

B) Thúy Kiều là tiềng nói lên án các thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người , đặc biệt là người phụ nữ .

_ Thế lực tàn bạo đó biểu hiện trong Truyện Kiều là bộ mặt quan lại xấu xa , đê tiện , bỉ ổi – đầu mối gây ra mọi tai họa bất hạnh cho con người . Bọn quan lại ấy là Hồ Tin Hiến , 1 kể quan tổng đất trọng thần tráo trở , tàn bạo , dâm ô , đểu cáng , đó là Hoạn Thư – con quan lại bộ nhưng độc ác , tàn nhẫn , đã hành hạ Thúy Kiểu để thỏa lòng ghen tức . Dưới chúng là bọn đầu trâu mặt ngựa như Mã Dám Sinh , Sở Khanh , Bạc Bà , Bạc Hạnh , Tù Bà … chúng cấu kết lại với nhau , dẫm đạp lên quyền sống hạnh phúc , nhân phẩm của con người .

_ Thế lực tàn bạo ấy còn là sức mạnh tác oai , tác quái của đồng tiền đã biến con người thành vật mua bán , đổi trác . Thúy Kiều chính là nạn nhân của thế lực tàn bạo đó . Nguyễn Du khi nói về điều đấy , đặc biệt là về sức mạnh hung hiểm của đồng tiền , ông đã viết nên những câu thơ thật chua chát :

” Trong tay sẵn có đồng tiền

Đầu lòng đổi trắng thay đên khó “.

Và : ” Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong ” .

Tóm lại :

Truyện Kiều là tuyên ngôn về quyền sống con người , với những khát vọng về tình yêu công lý tự do . Truyện Kiều cũng là bản cáo trạng bằng thơ lên án XH phong kiến mục nát xấu xa tàn bạo đã chà đạp lên nhân cách con người , dập tắt mọi ước mơ đẹp đẽ của con người . Chính giá trị nhân đạo này trở thành kiệt tác nghìn đời .

3)Giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều :

Về giá trị nghệ thuật Truyện Kiều rất phong phú , rất đặc sắc song 2 phương diện chủ yếu :

a) Nghệ thuật xây dựng nhân vật :

Nhìn chung Nguyễn Du đã xây dựng hình tượng nhân vật của mình theo phương pháp truyền thống : chia nhân vật thành 2 tuyết chính diện và phản diện . Nhân vật chính diện được miêu tả theo lối lý tưởng hóa , bằng phương pháp ước lệ tượng trưng . Còn nhân vật phản diện lại được khắc họa theo lối tả thực . Mỗi người đều đạt tới sự điển hình hóa cao độ . Vì thế nhiều nhân vật trong t/p Truyện Kiều đã bước ra từ trong trang sách để sống với cuộc đời thực , trở thành chuẩn mực để người ta đánh giá con người .

B) Nghệ Thuật ngôn ngữ :

Ngôn ngữ Truyện Kiều đạt đến mức trong sáng mẫu mực . Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn 2 t/p ngôn ngữ : ngôn ngữ bình dân – ngôn ngữ ca dao , tục ngữ lời ăn tiếng nói của người dân ; Ngôn ngữ bác học mà chủ yếu là những từ Hàn Việt đã mang đến cho Truyện Kiều thứ ngôn ngữ vừa hàm xúc , vừa trang nhã , vừa giản dị mà vẫn đẹp đẽ , giàu hình ảnh nhạc điệu . Vì thế người ta gọi Truyện Kiều là ” tòa lâu đài ngôn ngữ thơ ca ” được kết nên từ những viên ngọc lấp lánh , sáng trong .

Cập nhật thông tin chi tiết về Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Văn Chương Đại Thi Hào Nguyễn Du trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!