Bạn đang xem bài viết Cia Và Những Kế Hoạch Chiêu Dụ Điệp Viên .Công An B?C Li�U được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
CIA và những kế hoạch chiêu dụ điệp viên
Cập nhật ngày: 22-08-2018
Sử dụng con người để thu thập thông tin tình báo từ đối phương đóng vai trò rất lớn trong cuộc chiến tình báo trong Chiến tranh Lạnh, trong đó việc chiêu dụ, tuyển mộ điệp viên của đối phương là sách lược sống còn được Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) tiến hành xuyên suốt Chiến tranh Lạnh. Và sách lược đó vẫn tiếp tục đóng vai trò lớn trong cuộc chơi gián điệp toàn cầu của CIA hiện nay.
Câu chuyện của Zaporozhsky
Trước khi bị CIA chiêu dụ trở thành điệp viên hai mang, Alexander Zaporozhsky là một điệp viên kỳ cựu của Cơ quan tình báo Xôviết KGB từ thập niên 1970. Sau 20 năm phục vụ trong KGB, Zaporozhsky bỗng trở thành con mồi dễ bị lung lạc và bị CIA tuyển mộ vào năm 1995. Luôn sống trong nỗi lo sợ bị phát hiện và bị bắt, Zaporozhsky bất ngờ xin nghỉ việc tại KGB và rời bỏ đất nước, trốn sang Mỹ qua ngả Prague, Tiệp Khắc (cũ) vào đầu năm 1998.
Điệp viên đào tẩu được xem là “tài sản” vô giá của CIA.
Đến Mỹ, Zaporozhsky tiếp tục cung cấp cho CIA những thông tin mật vô cùng quý giá về tổ chức và nội tình các cơ quan tình báo kế thừa của KGB, về hoạt động của mạng lưới tình báo Nga trên đất Mỹ. Nhờ thông tin do Zaporozhsky cung cấp mà cơ quan phản gián FBI của Mỹ theo dõi và phát hiện đặc vụ Mỹ Robert Hanssen làm việc cho tình báo Nga nằm vùng trong FBI.
Zaporozhsky đã được tình báo Mỹ trả công rất hậu hĩnh, lên đến hàng triệu USD. Và ông này đã dùng số tiền đó để tậu biệt thự trong khu sang trọng Cockeysville ở hạt Baltimore, bang Maryland. Trong nhiều năm liền, Zaporozhsky sống rất kín tiếng. Cư dân trong khu Cockeysville không hề biết ông ta là ai và cũng không hề hay biết ông ta đang cộng tác với CIA.
Thế nhưng, dù đã cố gắng “lặn thật sâu” để trốn tránh sự truy lùng của tình báo Nga, Zaporozhsky cũng không thể nào trốn tránh được mãi. Vào năm 2001, Zaporozhsky đã dễ dàng bị một người hàng xóm tên Scott Donahoo phát hiện chỉ sau một, hai câu chào hỏi.
Nhìn cơ ngơi khá sang trọng của Zaporozhsky, Donahoo đã hỏi thăm ông ta làm nghề gì? Zaporozhsky bảo mình “kinh doanh xuất nhập khẩu” đặt trụ sở tại chính căn biệt thự của mình. Vốn là lái buôn ôtô nổi tiếng ở Baltimore, Donahoo phát hiện Zaporozhsky nói dối, vì chẳng nghe nói đến tên công ty nào như thế trong vùng Baltimore. Thế là Donahoo nghi ngờ Zaporozhsky “kinh doanh phim sex”.
Cựu điệp viên Alexander Zaporozhsky.
Không lâu sau câu chuyện tưởng chừng “vô thưởng vô phạt” đó, Zaporozhsky đã bị tình báo Nga phát hiện và bắt đầu tung chiêu để dụ dỗ ông ta quay trở về Nga. Biết được thông tin này, đồng thời nhìn thấy trước nguy cơ không thể tránh đối với Zaporozhsky khi quay trở về nơi xưa kia mình từng gắn bó và đã từng phản bội, giới chức tình báo CIA và FBI đã ra sức can ngăn nhưng bất thành. Zaporozhsky đã quyết trở về, dù có thế nào cũng mặc.
Tháng 11-2001, Zaporozhsky trở về Moscow, mục đích là để tham dự một cuộc họp mặt các cựu thành viên của KGB. Tuy nhiên, khi vừa đặt chân đến Moscow, Zaporozhsky bị bắt ngay lập tức. Ông ta bị xét xử về tội làm gián điệp cho Mỹ, cung cấp thông tin bí mật về các điệp viên ngầm của Liên Xô cũ (và Nga) tại Mỹ dẫn đến việc điệp viên Robert Hassen bị lật tẩy năm 2000. Zaporozhsky một mực kêu oan, nhưng câu chuyện ông này bị CIA chiêu dụ để làm điệp viên hai mang là có thật.
Zaporozhsky bị tuyên án 18 năm tù. Năm 2010, ông ta được chuyển giao cho Mỹ (cùng với một số điệp viên khác) trong cuộc trao đổi 10 điệp viên Nga trong vụ mạng lưới điệp viên Nga bị phát hiện và bị bắt năm đó.
Chương trình bí mật của CIA
Câu chuyện của Zaporozhsky, và cả cựu điệp viên Nga Sergei Skripal, là những trường hợp điển hình của cái gọi là Chương trình bí mật chiêu dụ điệp viên nước ngoài của CIA được triển khai từ thời cao trào Chiến tranh Lạnh. Chương trình được thiết kế với mục đích ban đầu là tuyển dụng và tạo điều kiện tái định cư cho những điệp viên phản bội và trốn chạy khỏi đất nước như Zaporozhsky và Skripal.
Đồng thời tìm cách lôi kéo, chiêu dụ các điệp viên ngầm, điệp viên còn trong tổ chức của các quốc gia thù địch để biến họ thành những “tài sản” nằm vùng phục vụ mục tiêu thu thập thông tin tình báo đủ mọi kiểu cách.
Theo các cựu điệp viên và quan chức tình báo Mỹ, Chương trình bí mật của CIA bắt đầu được triển khai từ năm 1949, khi đó Quốc hội Mỹ thông qua một đạo luật cho phép CIA tái định cư 100 công dân nước ngoài “nếu việc đó nằm trong lợi ích an ninh quốc gia hoặc giúp ích cho hoạt động tình báo của đất nước”.
Giai đoạn đầu, CIA thường không sử dụng hết hạn mức Quốc hội cho phép mỗi năm, bởi một lý do khá phổ biến khi đó là các cựu điệp viên đào tẩu cư trú trên khắp nước Mỹ bằng thân phận mới, danh tính và hồ sơ giấy tờ hoàn toàn mới. Họ chấp nhận chôn vùi, xóa bỏ đi lai lịch, tên tuổi, nghề nghiệp cũ để sống một cuộc sống mới. Đó gọi là “ẩn thân giữa đám đông” trong xã hội Mỹ nhằm trốn tránh sự truy đuổi của đất nước cũ.
Vì vậy, CIA đã triển khai hàng chục điệp viên kỳ cựu tham gia Chương trình để lần tìm ra những cựu điệp viên đào tẩu đó và đưa ra những lời khuyên, dụ dỗ họ nên làm gì để cuộc sống về sau được tốt đẹp hơn, thoải mái hơn. Trong khi đó, các điệp viên CIA được chỉ thị và nắm rõ tình trạng an toàn của các cựu điệp viên này luôn đáng báo động vì sự truy lùng của cố quốc. Thu hút và bảo vệ những “tài sản” tình báo quý giá này là nhiệm vụ hàng đầu, vô cùng khó khăn và đòi hỏi kỹ thuật hoàn hảo của các điệp viên tham gia Chương trình.
Lợi ích của việc chiêu mộ các điệp viên đào tẩu là không nhỏ. Cựu Giám đốc CIA Michael Hayden cho biết, các cựu điệp viên đào tẩu không chỉ giúp ích với các thông tin tình báo hiện tại mà còn giúp rất nhiều cho việc khai thác thông tin tình báo đề giải mã các vấn đề tình báo trong quá khứ. “Chúng tôi đã phát hiện các điệp viên đào tẩu là những nguồn thông tin tình báo dồi dào và có giá trị lâu dài. Họ giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà chúng tôi dù đã thu thập được nhưng chưa giải mã, hiểu rõ được” – ông Hayden nói.
Tuy nhiên, không phải điệp viên nào cũng đáp ứng các tiêu chuẩn khai thác thông tin của Chương trình để được CIA giúp đỡ, chiêu mộ. Nước Mỹ thường chỉ chiêu mộ các quan chức, sĩ quan cấp cao của quân đội, tình báo, các học giả, viện sĩ, nhà khoa học và những nhân viên hàng đầu trong các công việc có điều kiện tiếp cận những thông tin nhạy cảm, có nguy cơ bị bắt giữ rất cao.
Nếu điệp viên đào tẩu được đưa ra khỏi đất nước một cách an toàn, thường là vào ban đêm, họ và gia đình họ sẽ được đặt cho tên họ mới, được học tiếng Anh, được cấp cho một số tiền, một căn nhà để ở, và kèm theo lời khuyên: đừng sử dụng mạng xã hội, đừng tiếp xúc, liên lạc với ai ở quê nhà.
Có nhiều hình thức trợ giúp khác nhau được CIA sử dụng cho các điệp viên đào tẩu, như tạo điều kiện cho đi học đại học bằng giấy tờ giả, tên họ mới, hay như tạo ra một vụ ly hôn bí mật cho một cựu điệp viên đào tẩu khi người vợ của ông ta vẫn còn lưu trú ở quê nhà, không chịu đi theo. Rồi thì cũng phải mời chuyên gia tâm lý, tâm thần học đến để hỗ trợ các gia đình điệp viên đào đẩu làm quen với môi trường sống mới,…
Cựu điệp viên Sergei Skripal.
Việc bảo vệ an toàn cho các cựu điệp viên được xem là một vấn đề lớn trong Chương trình. Các cựu điệp viên bỏ trốn khỏi đất nước của họ thường đối mặt với nguy cơ bị bắt hoặc bị thủ tiêu vì họ đã phạm tội tày trời là phản bội tổ quốc, phải lĩnh án nặng. Kể cả khi các cựu điệp viên này đặt chân lên đất Mỹ, mối nguy hiểm đối với họ vẫn chưa hết, vì cố quốc của họ luôn theo đuổi, săn lùng họ cho đến chết.
Thách thức từ các nguy cơ đó càng trở nên phức tạp hơn trong thời đại công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, các công nghệ số tiên tiến được triển khai sử dụng rộng rãi và sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội càng làm cho công tác bảo vệ điệp viên đào tẩu trở nên khó khăn hơn.
Joe Augustyn, cựu sĩ quan CIA phụ trách Chương trình bí mật của CIA, cho rằng trong nhiều thập niên qua, các điệp viên cấp cao đào tẩu đóng vai trò như viên ngọc quý trên chiếc vương miệng của hoạt động tình báo con người. “Với sự phát triển công nghệ hiện đại, các điệp viên đào tẩu khó có thể ẩn thân giữa ban ngày trên đất Mỹ, vì vậy việc bảo vệ các điệp viên đào tẩu ngày nay gặp thách thức lớn hơn rất nhiều so với vài thập niên trước đây”.
Chính vì vậy, cho dù CIA giữ bí mật hoạt động tuyển mộ các cựu điệp viên đào tẩu, nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra những trường hợp các cựu điệp viên lưu vong ở nước ngoài bị đầu độc, như vụ Aleksandr Litvinenko và mới đây nhất là Sergei Skripal bị đầu độc bằng chất độc thần kinh ở thành phố Salisbury, Anh.
Mặc dù chưa rõ về mục đích cũng như thủ phạm của nhiều vụ việc như thế, song trong các trường hợp này, trách nhiệm của các điệp viên được giao quản lý là rất lớn. Việc bảo vệ an toàn cho các điệp viên đào tẩu được tuyển mộ đã được đích thân Giám đốc CIA truyền đạt cho các điệp viên mới vừa trải qua khóa huấn luyện làm điệp viên cho CIA.
Không chỉ thách thức về an toàn như đã nêu, các điệp viên đào tẩu còn đem đến cho các điệp viên quản lý của CIA những vấn đề khác về tâm lý và vận chuyển khi thực hiện công việc tái định cư lâu dài cho các cựu điệp viên. Một số điệp viên đào tẩu tỏ ra quá tự tin vào sự chắc chắn của bản thân họ, và chính đức tính chết người đó gây thêm khó khăn cho CIA trong công tác bảo vệ. Một số người không thể chấp nhận thực tế mình không còn là mình như trước đây nữa.
Cựu điệp viên CIA Augustyn cho biết: “Bất cứ ai phản bội đất nước mình vì bất cứ lý do gì, đều có cá tính khác nhau”, và họ thường là những con người có cái tôi rất mạnh và có động lực lớn như trả thù hay tham tiền bạc để thực hiện hành động phản bội đất nước mình. Chưa hết, còn phải kể đến việc con cái của điệp viên đào tẩu không thể từ bỏ được mạng xã hội, và cả những cựu điệp viên sau thời gian không thể điều chỉnh sang cuộc sống mới đành đưa cả gia đình trở về quê nhà sinh sống, chấp nhận rủi ro cao cho bản thân.
Sau vụ đầu độc cha con cựu điệp viên Skripal, mặc dù chưa thể kết luận vụ việc, CIA đưa ra nhận định rằng đang có sự gia tăng truy lùng điệp viên đào tẩu của Nga trên khắp châu Âu và Mỹ. Điều này có nghĩa là CIA càng phải đẩy mạnh hoạt động Chương trình bí mật để mau chóng tuyển mộ và tái định cư cũng như tăng cường bảo vệ an toàn cho họ nhằm lợi dụng, khai thác “kho” dữ liệu tình báo mà họ mang theo.
Ngoài Zaporozhsky và Skripal còn nhiều câu chuyện khác về các điệp viên đào tẩu được CIA tuyển mộ, như trường hợp Ryszard Kuklinski, cựu đại tá quân đội Ba Lan, được CIA chiêu mộ và đưa ra khỏi Ba Lan vào năm 1981.
Sau đó, Kuklinksi đã cung cấp cho CIA những tài liệu nhạy cảm về chương trình vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Kuklinksi được tái định cư, sống yên bình ở Florida trong nhiều năm, được cộng đồng tình báo Mỹ tôn vinh như người hùng. Tuy nhiên, năm 1994 xảy ra biến cố khiến hai con trai của ông chết một cách bí ẩn, không để lại dấu vết gì của hung thủ. Cho đến nay, CIA vẫn chưa thể giải đáp được những cái chết bí ẩn này.
Theo http://antg.cand.com.vn
Sự Khác Nhau Giữa B2B Và B2C 2022
Nhắc đến B2B và B2C, người ta thường hình dung đến bán hàng b2b, marketing b2b. Nhưng ít ai hiểu rõ bản chất của nó. B2B và b2C là 2 thuật ngữ được viết tắt dùng phổ biến trong lĩnh vực bán hàng, marketing.
I. Khái niệm của B2B và B2C là gì?
B2B là từ viết tắt của “Business to Business – Doanh nghiệp và doanh nghiệp” – mô hình kinh doanh thương mại điện tử xảy ra giữa các doanh nghiệp với nhau.
B2C (Business to Custome) thương mại điện tử B2C là các giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng. Trong đó, đối tượng khách hàng của loại hình này là các cá nhân mua hàng.
Loại hình này áp dụng cho bất kỳ doanh nghiệp hay tổ chức nào bán các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sử dụng của cá nhân.
Lướt sơ qua vậy thôi, hãy đi vào phần chính củaB bài viết hôm nay.
II. Sự khác biệt giữa cơ bản giữa B2B và B2C
2.1 Khác biệt về đối tượng khách hàng
Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp
Là cá nhân (người tiêu dùng cuối cùng)
Những doanh nghiệp mua hàng về để tiêu dùng
Xét tổng thể thì các giao dịch diễn ra giữa B2B phức tạp hơn, đòi hỏi tính an toàn cao hơn.
2.2 Khác biệt về đàm phán, giao dịch
Bao gồm cả các yếu tố như đàm phán về giá cả, giao nhận hàng, đặc tính kỹ thuật của sản phẩm
Không giống như B2B, đàm phán, giao dịch B2C khá đơn giản.
Điều này khiến cho các nhà bán lẻ dễ dàng hơn trong việc đưa lên mạng catalog sản phẩm dịch vụ của họ để mở một siêu thị trực tuyến.
Đó cũng chính là lý do tại sao những ứng dụng Thương mại điện tử B2B đầu tiên được phát triển chỉ cho những hàng hóa và sản phẩm hoàn chỉnh, đơn giản trong khâu mô tả đặc tính và định giá.
2.3 Khác biệt về quy trình marketing B2B và B2C
Bạn đừng nghĩ rằng, làm marketing dù B2B hay B2C là giống nhau ở điểm tiếp thị đến con người.
Có thể nói, marketing tới các doanh nghiệp (B2B) và tới người tiêu dùng (B2C) là hoàn toàn khác nhau.
Đối với marketing B2B sẽ phụ thuộc vào những nỗ lực tiếp thị xây dựng mối quan hệ. Nếu bạn đang có ý tưởng rằng sẽ tập trung vào người tiêu dùng để chinh phục thị thị trường B2B thì chỉ làm lãng phí ngân sách mà thôi.
Bước đầu tiên trong chiến lược phát triển marketing B2B cũng tương tự với B2C:
Xác định đối tượng khách hàng là ai?
Tại sao họ cần phải nghe thông điệp của bạn?
Còn những hoạt động marketing tiếp theo sẽ là khác nhau.
2.4 Khác biệt về quá trình bán hàng
Mối quan hệ dẫn dắt
Tối đa hóa giá trị của mối quan hệ
Thị trường mục tiêu nhỏ và tập trung
Quy trình mua hàng nhiều bước, chu trình bán hàng dài hơn
Nhận diện thương hiệu được tạo ra bằng mối quan hệ cá nhân
Các hoạt động xây dựng nhận thức và sự hiểu biết
Quyết định mua hàng thuộc về lý trí dựa trên giá trị kinh tế mang lại
Sản phẩm dẫn dắt
Tối đa hóa giá trị của giao dịch
Thị trường mục tiêu rộng lớn
Quy trình mua hàng từng bước, chu trình bán hàng ngắn hơn
Nhận diện thương hiệu được tạo ra thông qua sự lặp lại và hình ảnh
Buôn bán và hướng vào các hoạt động mua hàng
Quyết định mua hàng thuộc về cảm xúc dựa trên mong muốn, hoàn cảnh hoặc giá cả
Mục tiêu cuối cùng của B2B khá giống với B2C là chuyển đổi những khách hàng tiềm năng thành khách hàng nhưng quá trình này sẽ lâu hơn và phức tạp hơn
Sử dụng các hoạt động tiếp thị phức tạp hơn (gửi email, qua điện thoại, qua webstie, nhân viên bán hàng,
Sử dụng các hoạt động khuyến khích bán hàng: phiếu giảm giá, trưng bày sản phẩm,…
Cần sử dụng xây dựng các mối quan hệ và quảng bá bằng những hoạt động tiếp thị khác nhau.
Cẩm Thạch Loại A, B, C Và Những Cách Phân Biệt
Đá cẩm thạch loại A, B,C là chỉ tiêu chất lượng. Dùng để nhận biết đây là đá c tự nhiên không xử lý hay đã qua xử lý. Bài viết này, Kaia hướng dẫn bạn cách phân biệt đá cẩm thạch loại A, B,C và chúng ta nên sử dụng loại nào.
Cách phân loại
Loại A là những loại hoàn toàn tự nhiên 100%, không qua xử lý.
Loại B là những loại hoàn toàn tự nhiên, nhưng đã được xử lý để loại bỏ tạp chất.
Loại C là những sản phẩm đã bị xử lý khá năng, phá vỡ năng lượng của đá.
Phân biệt Cẩm thạch loại B và C
Hàng loại B
Theo nhiệt độ
Cẩm thạch là loại đá có thể chịu được nhiệt độ đến 1000 độ C còn Polyme chỉ chịu được 400 độ C. Nếu nung ở nhiệt độ 400, nếu thấy vết cháy hoặc có mùi cháy thì có thể biết sản phẩm đã qua xử lý Polyme
Theo âm thanh
Dùng một viên mã não hoặc một đồng xu, gõ nhẹ vào miếng cẩm thạch. Nếu là hàng loại A thì sẽ có âm trong và ngân dài, còn loại B thì ngắn và đục hơn.
Đèn tử ngoại
Dùng đen có bước sóng từ 400 đến 315 nm chiếu vào. Nếu là loại xử lý Polyme thì huỳnh quanh sẽ yếu và có màu xanh phấn da trời cực tím.
Tuy nhiên, đối với loại B được xử lý Resin thì không phát hiện được bằng phương pháp này
Hàng loại C
Phân biệt bằng mắt
Sản phẩm được nhuộm có màu sắc không đều và không có những vân đá, vết nứt tự nhiên.
Phân biệt bằng kính Chelsea
Dùng đèn chiếu từ dưới lên, sau đó quan sát bằng kính lọc Chelsea nếu thấy chuyển màu thì đấy là hàng loại C. Vì loại A khi quan sát sẽ không chuyển màu.
Đèn tử ngoại
Dùng đèn có bước sóng từ 400 đến 315 nm chiếu vào , nếu là sản phẩm loại C thì sẽ phát huỳnh quang mạnh và có màu xanh phấn da trời.
Nên sử dụng cẩm thạch loại nào ?
Nếu bạn là người có tài chính dư dả và muốn sở hữu hàng tự nhiên thì nên chọn loại A. Những sản phẩm loại A sau khi đeo một thời gian sẽ trong và đẹp hơn. Sản phẩm lên nước người ta thường gọi với cái tên mỹ miều là ” Ngọc phỉ thúy “
Nếu bạn có tài chính không được dư dả nhưng vẫn muốn đeo đá cẩm thạch. Thì có thể lựa chọn loại B, sau một thời gian sử dụng, tuy không thể lên nước đẹp như loại A nhưng cũng sẽ không bị xuống màu xấu đi.
Còn những sản phẩm loại C thì lại có gía thành rất rẻ, và tất nhiên chất lượng cũng không tốt. Hàng loại này chỉ thích hợp đeo cho vui, vì càng đeo lâu nó càng mất màu và xấu đi.
Marketing B2B Và B2C Có Gì Khác Nhau?
B2B và B2C là gì?
B2C là hình thức bán sản phẩm hoặc dịch vụ trực tiếp cho khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng với mục đích sử dụng cá nhân hoặc cho gia đình . Một vài ví dụ có thể kể đến như là siêu thị, các cửa hàng quần áo, nhà bán lẻ thiết bị gia đình hoặc thiết bị điện tử, cửa hiệu làm tóc, công ty tư vấn bất động sản và dịch vụ phát nhạc trực tuyến.
B2B là mô hình kinh doanh trong đó các công ty sẽ bán sản phẩm và dịch vụ của mình cho khách hàng doanh nghiệp (không phải là người tiêu dùng cuối cùng). Thông thường, các doanh nghiệp đóng vai trò là bên mua sẽ sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ trong tổ chức của họ. Ngoài ra, họ có thể là các doanh nghiệp bán hàng theo kênh: nhà bán buôn bán lại cho các công ty khác, hoặc nhà bán lẻ bán ra đại chúng. Một vài ví dụ của hình thức này là các công ty cung cấp thiết bị văn phòng phẩm, nhà sản xuất lốp xe ô tô hay công ty công nghệ thông tin cung cấp các giải pháp phần mềm.
Sự khác nhau giữa Marketing B2C và B2B
1. Người ra quyết định
2. Động lực và quá trình mua hàng
Đối với khách hàng B2B, quá trình ra quyết định ít bị ảnh hưởng bởi yếu tố cảm xúc, mà chủ yếu là dựa trên lý tính. Chìa khoá tác động đến họ là tính năng (functional benefit) của sản phẩm, lợi ích thực tiễn mà sản phẩm đem lại, lời tư vấn, giới thiệu từ các bên có uy tín.
Trong khi khách hàng B2C tìm kiếm các sản phẩm giúp đời sống của họ trở nên tốt hơn, khách hàng B2B muốn sản phẩm giải quyết trực tiếp các vấn đề của doanh nghiệp họ. Khi mua hàng, họ thường đặt một số câu hỏi như: Tại sao phải mua sản phẩm này? Chúng có giúp gia tăng lợi nhuận không? Chúng có giúp tiết kiệm thời gian và nhân lực không? Chúng có giúp cải thiện sự hài lòng của khách hàng và lợi thế cạnh tranh không?
3. Cách tiếp cận Marketing
Do quyết định mua hàng của khách hàng B2C thường diễn ra nhanh chóng, dựa theo cảm tính và mức độ trung thành có thể không cao nên marketing B2C cần truyền đạt thông điệp đơn giản, dễ hiểu, đồng thời cũng cần sự sáng tạo để khách hàng luôn nhớ tới và lựa chọn sản phẩm của thương hiệu mình.
Bên cạnh đó, bởi sản phẩm B2C cần thiết với nhiều người, marketing B2C thường được thực hiện trên nhiều kênh khác nhau (như tại các cửa hàng bán lẻ, TVC, website, mạng xã hội, các sàn thương mại điện tử) để thu hút càng nhiều khách hàng tiềm năng càng tốt. Đặc biệt, ngày nay, các nền tảng mạng xã hội như Facebook và Instagram trở nên rất phổ biến (với 3,8 tỷ người dùng tính đến tháng 1 năm 2020). Do vậy, việc các B2C marketer cần làm là theo dõi những xu hướng mới nhất và tìm cách tương tác, kết nối, và chia sẻ để có thể hiểu hơn về khách hàng tiềm năng trên mạng xã hội.
Trong khi đó, với các giao dịch B2B, khách hàng muốn chắc chắn sản phẩm phải giúp họ giải quyết vấn đề. Họ ít khi chấp nhận rủi ro để thử một sản phẩm mới khi chưa nhìn thấy lợi ích thực sự đem lại. Tuy nhiên, khi đã tin tưởng lựa chọn, mức độ trung thành của khách hàng B2B khá cao, bởi họ muốn duy trì sự ổn định, và tìm kiếm giải pháp lâu dài. Bởi vậy mà marketing B2B cần tập trung đem lại những thông điệp thuyết phục khách hàng về những tính năng, lợi ích của sản phẩm đáng để doanh nghiệp đầu tư, đồng thời cần xây dựng và duy trì mối quan hệ bền vững với khách hàng. Trọng tâm của Marketing B2B xuất phát từ chữ P – Product và sử dụng content marketing, PR như vũ khí chính yếu để “chốt hạ” khách hàng.
Một số hoạt động marketing các doanh nghiệp B2B có thể thực hiện như:
Các kênh digital marketing giúp tạo ra, kết nối và chăm sóc khách hàng tiềm năng (LinkedIn là mạng xã hội phổ biến hướng đến người dùng là các doanh nghiệp)
Các chiến lược email marketing giúp chăm sóc khách hàng tiềm năng đã được tạo ra
Các công cụ giúp theo dõi lượt truy cập website từ các công ty
Nội dung marketing giúp củng cố kiến thức, thông báo cho khách hàng tiềm năng hoặc hỗ trợ các cuộc họp mặt bán hàng (đặc biệt chú ý đến video giới thiệu sản phẩm, các báo cáo, tính toán về , case study và lời chứng thực testimonials từ khách hàng)
Cần lưu ý rằng, đối tượng khách hàng doanh nghiệp khá khó tiếp cận. Vì vậy, làm Marketing B2B, doanh nghiệp cần “vẽ” chính xác chân dung khách hàng mục tiêu, tìm hiểu xem họ là ai, điều gì quan trọng với họ và nắm rõ họ đang ở đâu trong quá trình ra quyết định (đang ở bước tìm kiếm các giải pháp, cân nhắc các lựa chọn hay đã đi đến quyết định cuối cùng về sản phẩm).
4. Ví dụ cụ thể
Đối với khách hàng B2C, Coca-Cola cần xây dựng thương hiệu và chạy các chiến dịch truyền thông liên tục nhằm nuôi dưỡng cảm xúc, khiến khách hàng luôn nhớ tới thương hiệu. Các hoạt động như TVC, tổ chức sự kiện, các chiến dịch sáng tạo… là để nhắm tới đối tượng khách hàng B2C.
Nhưng để phân phối hàng vào các siêu thị – khách hàng B2B, Coca-Cola cần đưa ra những số liệu về sản phẩm như mức tiêu thụ, độ phủ trên thị trường,… và đề xuất thương lượng giá bán. Các siêu thị cần Coca-Cola chứng minh rằng khi họ nhập sản phẩm này vào thì sẽ bán được (không bị ế), và đưa ra quyết định dựa trên chất lượng sản phẩm và mức chiết khấu mà thương hiệu đề xuất.
Marketing B2B và B2C có nhiều điểm khác biệt đặc thù, nhưng nhìn chung, cả hai đều xuất phát từ cái gốc Marketing căn bản. Vì vậy, muốn làm Marketing B2B hay B2C, bạn cũng cần phải có kiến thức Marketing bài bản, và có hệ thống để thực chiến một cách hiệu quả.
Cập nhật thông tin chi tiết về Cia Và Những Kế Hoạch Chiêu Dụ Điệp Viên .Công An B?C Li�U trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!