Bạn đang xem bài viết Cách Phân Biệt Từ Ghép, Từ Láy Dễ Lẫn Lộn được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Một số cách phân biệt từ ghép từ láy
Phân biệt từ ghép và từ láy vốn rất phức tạp. Bởi vậy Tiếng Việt có sự chuyển hoá từ từ ghép sang từ láy âm. Lại không ít trường hợp phân tích rạch ròi giữa là ghép hay láy đành xếp chúng vào đơn vị trung gian. Tuy nhiên cũng có một số cách nhận diện, phân biệt từ láy, từ ghép . Bạn có thể phân biệt dễ dàng theo các cách sau đây.
Cách phân biệt từ ghép, từ láy dễ lẫn lộn
Cấu tạo của từ phức lớp 4Có 2 cách chính để tạo từ phức:
– Cách 1: ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau. Đó là các từ ghép .
– Cách 2: Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau. Đó là các từ láy.
1. Từ ghép: Là từ do 2 hoặc nhiều tiếng có nghĩa ghép lại tạo thành nghĩa chung.
T.G được chia thành 2 kiểu:
– T.G có nghĩa tổng hợp (T.G hợp nghĩa, T.G đẳng lập, T.G song song): Là từ ghép mà nghĩa của nó biểu thị những loại rộng hơn, lớn hơn, khái quát hơn so với nghĩa các tiếng trong từ.
-T.G có nghĩa phân loại (T.G phân loại, T.G chính phụ): Thường gồm có 2 tiếng, trong đó có 1 tiếng chỉ loại lớn và 1 tiếng có tác dụng chia loại lớn đó thành loại nhỏ hơn.
– Lưu ý:
+ Các tiếng trong từ ghép tổng hợp thường cùng thuộc một loại nghĩa (cùng danh từ, cùng động từ,…)
+ Các từ như: chèo bẻo, bù nhìn, bồ kết, ễnh ương, mồ hôi, bồ hóng,…, axit, càphê , ôtô, môtô, rađio,…có thể cho là từ ghép (theo định nghĩa) hoặc từ đơn (tuy có 2 tiếng trở lên nhưng các tiếng đó phải gộp lại mới có nghĩa , còn từng tiếng tách rời thì không có nghĩa. Những trường hợp này gọi là từ đơn đa âm).
2. Từ láy (T.L): Là từ gồm 2 hay nhiều tiếng láy nhau. Các tiếng láy có thể có 1 phần hay toàn bộ âm thanh được lặp lại.
Căn cứ vào bộ phận được lặp lại, người ta chia từ láy thành 4 kiểu: Láy tiếng, láy vần, láy âm, láy cả âm và vần . Căn cứ vào số lượng tiếng được lặp lại, người ta chia thành 3 dạng từ láy: láy đôi, láy ba,láy tư,…)
+ Từ tượng thanh: Là từ láy mô phỏng, gợi tả âm thanh trong thực tế: Mô phỏng tiếng người, tiếng của loài vật, tiếng động,…
V.D: rì rào, thì thầm, ào ào,…
+ Từ tượng hình: Là từ láy gợi tả hình ảnh, hình dáng của người, vật; gợi tả màu sắc, mùi vị.
V.D: Gợi dáng dấp: lênh khênh, lè tè, tập tễnh, …
Gợi tả màu sắc: chon chót, sặc sỡ, lấp lánh,…
Gợi tả mùi vị: thoang thoảng, nồng nàn, ngào ngạt,…
Lưu ý:
+ Một số từ vừa có nghĩa tượng hình, vừa có nghĩa tượng thanh, tuỳ vào văn cảnh mà ta xếp chúng vào nhóm nào.
V.D: làm ào ào (ào ào là từ tượng hình), thổi ào ào (ào ào là từ tượng thanh)
+ Trong thực tế, vẫn tồn tại những từ tượng thanh và tượng hình không phải là từ láy (ở phạm vi tiểu học không đề cập tới các từ này).
V.D: bốp (tiếng tát) , bộp (tiếng mưa rơi), hoắm (chỉ độ sâu), vút (chỉ độ cao)….
V.D: làm lụng , máy móc, chim chóc, …(nghĩa tổng hợp) ; nhỏ nhen, nhỏ nhắn, xấu xa, xấu xí ,…(nghĩa phân loại). Tuy nhiên , ở tiểu học thường đề cập đến mấy dạng cơ bản sau:
+ Diễn tả sự giảm nhẹ của tính chất (so với nghĩa của từ hay tiếng gốc).
+ Diễn tả sự tăng lên, mạnh lên của tính chất:
+ Diễn tả sự lặp đi lặp lại các động tác, khiến cho từ láy có giá trị gợi hình cụ thể
V.D: gật gật , rung rung, cười cười nói nói, …
+Diễn tả sự đứt đoạn, không liên tục nhưng tuần hoàn.
V.D: lấp ló, lập loè, bập bùng, nhấp nhô, phập phồng,…
+ Diễn tả tính chất đạt đến mức độ chuẩn mực, không chê được.
V.D: nhỏ nhắn, xinh xắn, tươi tắn, ngay ngắn, vuông vắn, tròn trặn,…
Cách phân biệt các từ ghép và từ láy dễ lẫn lộn Tiếng Việt 41. Nếu các tiếng trong từ có cả quan hệ về nghĩa và quan hệ về âm (âm thanh) thì ta xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ: thúng mủng, tươi tốt, đi đứng, mặt mũi, phẳng lặng, mơ mộng, buôn bán nhỏ nhẹ, hốt hoảng,…
2. Nếu các từ chỉ còn 1 tiếng có nghĩa, còn 1 tiếng đã mất nghĩa nhưng 2 tiếng không có quan hệ về âm thì ta xếp vào nhóm từ ghép.
Ví dụ: Xe cộ, tre pheo, gà qué, chợ búa,…
3. Nếu các từ chỉ còn 1 tiếng có nghĩa, còn 1 tiếng đã mất nghĩa nhưng 2 tiếng có quan hệ về âm thì ta xếp vào nhóm từ láy.
Ví dụ: chim chóc, đất đai, tuổi tác, thịt thà, cây cối, máy móc,…
– Lưu ý: Những từ này nếu nhìn nhận dưới góc độ lịch đại (tách riêng các hiện tượng ngôn ngữ, xét trong sự diễn biến, phát triển theo thời gian làm đối tượng nghiên cứu) và nhấn mạnh những đặc trưng ngữ nghĩa của chúng thì có thể coi đây là những từ ghép (T.G hợp nghĩa). Nhưng xét dưới góc độ đồng đại (tách ra một trang thái, một giai đoạn trong sự phát triển của ngôn ngữ làm đối tượng nghiên cứu) và nhấn mạnh vào mối quan hệ ngữ âm giữa 2 tiếng, thì có thể coi đây là những từ láy có nghĩa khái quát (khi xếp cần có sự lí giải). Tuy nhiên, ở tiểu học, nên xếp vào từ láy để dễ phân biệt. Song nếu H.S xếp vào từ ghép cũng chấp nhận.
4. Các từ không xác định được hình vị gốc (tiếng gốc) nhưng có quan hệ về âm thì đều xếp vào lớp từ láy.
Ví dụ: nhí nhảnh, bâng khuâng, dí dỏm, chôm chôm, thằn lằn, chích choè,…
5. Các từ có một tiếng có nghĩa và 1 tiếng không có nghĩa nhưng các tiếng trong từ được biểu hiện trên chữ viết không có phụ âm đầu thì cũng xếp vào nhóm từ láy (láy vắng khuyết phụ âm đầu).
Ví dụ: ồn ào, ầm ĩ, ấm áp, im ắng, ao ước ,yếu ớt,…
6. Các từ có 1 tiếng có nghĩa và 1 tiếng không có nghĩa có phụ âm đầu được ghi bằng những con chữ khác nhau nhưng có cùng cách đọc (c/k/q; ng/ngh; g/gh ) cũng được xếp vào nhóm từ láy.
Ví dụ: cuống quýt, cũ kĩ, ngốc nghếch, gồ ghề,…
– Lưu ý: trong thực tế, có nhiều từ ghép (gốc Hán) có hình thức ngữ âm giống từ láy, song thực tế các tiếng đều có nghĩa nhưng HS rất khó phân biệt, ta nên liệt kê ra một số từ cho HS ghi nhớ.
Ví dụ: bình minh, cần mẫn, tham lam, bảo bối, ban bố, căn cơ, hoan hỉ, chuyên chính, chính chuyên, chân chất, chân chính, hảo hạng, khắc khổ, thành thực,….
7. Ngoài ra, những từ không có cả quan hệ về âm và về nghĩa (từ thuần Việt) như: tắc kè, bồ hóng, bồ kết, bù nhìn, ễnh ương, mồ hôi,… hay các từ vay mượn như: mì chính, cà phê, xà phòng, mít tinh,… chúng ta không nên đưa vào chương trình tiểu học (H.S có hỏi thì giải thích đây là loại từ ghép đặc biệt, các em sẽ được học sau).
8. Từ ghép Tổng hợp và từ ghép Phân loại
Khi bạn gặp một từ ghép nào chỉ người (hoặc vật) nói chung, thì đó là từ ghép có nghĩa tổng hợp.
Ví dụ:
– Xa lạ (xa ghép với lạ tạo ra nghĩa tổng hợp: xa xôi và không quen biết.
– Sách vở (sách ghép với vở tạo ra nghĩa tổng hợp: sách và vở)
– Ăn uống (ăn ghép với uống tạo ra nghĩa tổng hợp: nói về việc ăn và uống)
Khi gặp từ ghép nào không chỉ chung, mà lại có nghĩa như phân loại người (hay vật) thì đó là từ ghép phân loại.
Ví dụ:
– Hạt thóc (hạt ghép với thóc tạo ra nghĩa phân loại so với: hạt ngô, hạt đỗ, hạt kê …)
– Bà nội (bà ghép với nội tạo ra nghĩa phân loại so với: bà ngoại, bà dì ….)
– Bài học (bài ghép với học tạo ra nghĩa phân loại so với: bài làm, bài tập …)
Bài tập thực hành Phân biệt từ ghép Từ láyBài 1: Điền các tiếng thích hợp vào chỗ trống để có:
a) Các từ ghép b) Các từ láy:
– mềm ….. – mềm…..
– xinh….. – xinh…..
– khoẻ….. – khoẻ…….
– mong…. – mong…..
– nhớ….. – nhớ…..
– buồn….. – buồn…..
Bài 2: Điền các tiếng thích hợp vào chỗ trống để có:
a) T.G.T.H b) T.G.P.L c) Từ láy
– nhỏ….. – nhỏ….. – nhỏ…..
– lạnh….. – lạnh….. – lạnh…..
– vui….. – vui….. – vui…..
– xanh… – xanh….. – xanh…..
Bài 3: Hãy xếp các từ sau vào 3 nhóm: T.G.P.L; T.G.T.H; Từ láy:
Thật thà, bạn bè, bạn đường, chăm chỉ, gắn bó, ngoan ngoãn, giúp đỡ, bạn học, khó khăn, học hỏi, thành thật, bao bọc, quanh co, nhỏ nhẹ.
Bạn học, bạn hữu, bạn đường, bạn đời, anh em, anh cả, em út, chị dâu, anh rể, anh chị, ruột thịt, hoà thuận, thương yêu.
Bài 5:
Cho những kết hợp sau:
Vui mừng, nụ hoa, đi đứng, cong queo, vui lòng, san sẻ, giúp việc, chợ búa, ồn ào, uống nước, xe đạp, thằn lằn, tia lửa, nước uống, học hành, ăn ở, tươi cười.
Hãy xếp các kết hợp trên vào từng nhóm: Từ ghép có nghĩa tổng hợp, từ ghép có nghĩa phân loại, từ láy, kết hợp 2 từ đơn.
Bài 6:
“Tổ quốc” là 1 từ ghép gốc Hán (từ Hán Việt). Em hãy:
– Tìm 4 từ ghép trong đó có tiếng “tổ”.
– Tìm 4 từ ghép trong đó có tiếng “quốc ”.
Bài 7:
Tìm 5 từ láy để miêu tả bước đi, dáng đứng của người. Đặt câu với mỗi từ tìm được.
Bài 8:
Em hãy tìm:
– 3 thành ngữ nói về việc học tập.
– 3 thành ngữ (tục ngữ) nói về tình cảm gia đình.
Bài 9:
Tìm các từ tượng hình, tượng thanh thích hợp điền vào chỗ trống:
– hang sâu ….
– cười…
– rộng….
– vực sâu….
– nói…
– dài….
– cánh đồng rộng….
– gáy…
– cao….
– con đường rộng…
– thổi….
– thấp…
Bài 10:
Tìm 4 từ ghép có tiếng ” thơm” đứng trước, chỉ mức độ thơm khác nhau của hoa, Phân biệt nghĩa của các từ này.
Bài 11:
Giải nghĩa các thành ngữ , tục ngữ sau:
– Ở hiền gặp lành.
– Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
– Ăn vóc học hay.
– Học thày không tày học bạn.
– Học một biết mười.
– Máu chảy ruột mềm.
Bài 12:
Điền những từ ngữ thích hợp vào chỗ trống để tạo thành các thành ngữ:
– Chậm như……
– Ăn như ….
– Nhanh như…..
– Nói như ….
– Nặng như…..
– Khoẻ như …
– Cao như……
– Yếu như …
– Dài như…..
– Ngọt như …
– Rộng như….
Vững như …
Bài 13: Em hãy ghép 5 tiếng sau thành 9 từ ghép thích hợp: thích, quý, yêu, thương, mến.
Bài 14: Xác định từ láy trong các dòng thơ sau và cho biết chúng thuộc vào loại từ láy nào:
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời
Tay nhè nhẹ chút, người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng.
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình
Nắng già hạt gạo thơm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.
Bài 15: Tìm từ đơn, từ láy, từ ghép trong các câu:
a. Mưa mùa xuân xôn xao, phơi phới… Những hạt mưa bé nhỏ, mềm mại, rơi mà như nhảy nhót.
b. Chú chuồn chuồn nước tung cánh bay vọt lên. Cái bóng chú nhỏ xíu lướt nhanh trên mặt hồ. Mặt hồ trải rộng mênh mông và lặng sóng.
d. Hằng năm, vào mùa xuân, tiết trời ấm áp, đồng bào Ê đê, Mơ-nông lại tưng bừng mở hội đua voi.
e. Suối chảy róc rách.
Bài 16: Tìm từ láy trong đoạn văn sau:
Bản làng đã thức giấc. Đó đây, ánh lửa hồng bập bùng trên các bếp. Ngoài bờ ruộng đã có bước chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng gọi nhau í ới.
Tảng sáng, vòm trời cao xanh mênh mông. Gió từ trên đỉnh núi tràn xuống thung lũng mát rượi.
Gợi ý đáp án
Bài 3:
– T.G.T.H: gắn bó, giúp đỡ, học hỏi, thành thật, bao bọc, nhỏ nhẹ.
– T.G.P.L: bạn đường, bạn học.
-Từ láy: thật thà, chăm chỉ, ngoan ngoãn, khó khăn, quanh co.
– Lưu ý: từ bạn bè cũng có thể xếp vào nhóm từ ghép tổng hợp nhưng cần lí giải nghĩa tiếng bè trong bè đảng, bè phái.
Bài 5:
– T.G.T.H: Vui mừng, đi đứng , san sẻ, chợ búa, học hành, ăn ở, tươi cười.
– T.G.P.L: Vui lòng, giúp việc, xe đạp, tia lửa, nước uống.
– Từ láy: cong queo, ồn ào, thằn lằn.
– Kết hợp 2 từ đơn: nụ hoa, uống nước.
Bài 11:
– Ở hiền gặp lành: Ở hiền thì sẽ được đền đáp bằng những điều tốt lành
– Tốt gỗ hơn tốt nước sơn: Phẩm chất đạo đức tốt đẹp bên trong đáng quý hơn vẻ đẹp hìn thức bên ngoài.
– Ăn vóc học hay: Phải ăn mới có sức vóc, phải học mới có hiểu biết.
– Học thày không tày học bạn: Ngoài việc học ở thầy cô, việc học hỏi ở bạn bè cũng rất cần thiết và hữu ích.
– Học một biết mười: Chỉ cách học của những người thông minh, không những có khả năng học tập, tiếp thu đầy đủ mà còn có thể tự mình phát triển, mở rộng được những điều đã học.
– Máu chảy ruột mềm: Chỉ tình máu mủ, ruột thịt thương xót nhau khi gặp hoạn nạn.
Cách phân biệt các từ loại, giúp học sinh nắm vững kỹ năng nhận dạng và phân biệt từ láy, từ phức. Ngoài ra, đưa ra các bài tập cụ thể giúp học sinh theo dõi, kiểm tra lại kiến thức đã học, ôn tập củng cố các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4, 5 chuẩn bị cho các bài thi, bài kiểm tra trong năm học. Tham khảo các dạng bài tập khác
Cách Phân Biệt Các Danh Từ, Động Từ, Tính Từ Dễ Lẫn Lộn
Bài tập Danh từ, Động từ, Tính từ
Phân biệt các Danh từ, Động từ, Tính từ dễ lẫn lộnCách phân biệt các danh từ, động từ, tính từ được VnDoc sưu tầm, tổng hợp những kiến thức cơ bản về từ loại danh từ, động từ, tính từ và các bài tập có đáp án đi kèm giúp các em học sinh tiểu học củng cố các dạng bài tập luyện từ và câu chuẩn bị cho các kỳ thi. Mời các em cùng tham khảo.
I – GHI NHỚ VỀ TỪ LOẠI:– Dựa vào sự giống nhau về đặc điểm ngữ pháp, các từ được phân ra thành từng loại, gọi là từ loại.
– Từ loại là các loại từ có chung đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa khái quát.
– Các từ loại cơ bản của Tiếng Việt gồm: Danh từ, động từ, tính từ, đại từ (lớp 5). Ngoài ra, còn có 1 số từ loại khác như: Quan hệ từ (học ở lớp 5), số từ, phụ từ, tình thái từ,…(không học ở tiểu học).
II – GHI NHỚ VỀ DANH TỪ – ĐỘNG TỪ – TÍNH TỪ:1. Danh từ (DT): DT là những từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị)
V.D:
– DT chỉ hiện tượng: mưa, nắng, sấm, chớp,…
– DT chỉ khái niệm: đạo đức, người, kinh nghiệm, cách mạng,…
– DT chỉ đơn vị: Ông, vị (vị giám đốc), cô (cô Tấm), cái, bức, tấm,… ; mét, lít, ki-lô-gam,… ; nắm, mớ, đàn,…
Khi phân loại DT tiếng Việt, trước hết, người ta phân chia thành 2 loại: DT riêng và DT chung.
+ Danh từ riêng: là tên riêng của một sự vật (tên người, tên địa phương, tên địa danh,…)
+ Danh từ chung: là tên của một loại sự vật (dùng để gọi chung cho một loại sự vật). DT chung có thể chia thành 2 loại:
– DT cụ thể: là DT chỉ sự vật mà ta có thể cảm nhận được bằng các giác quan (sách, vở, gió, mưa,…).
– DT trừu tượng: là các DT chỉ sự vật mà ta không cảm nhận được bằng các giác quan (cách mạng, tinh thần, ý nghĩa,…).
Các DT chỉ hiện tượng, chỉ khái niệm, chỉ đơn vị được giảng dạy trong chương trình SGK lớp 4 chính là các loại nhỏ của DT chung.
Hiện tượng là cái xảy ra trong không gian và thời gian mà con người có thể nhận thấy, nhận biết được. Có hiện tượng tự nhiên như: mưa, nắng, sấm, chớp, động đất,… và hiện tượng xã hội như: chiến tranh, đói nghèo, áp bức,…DT chỉ hiện tượng là DT biểu thị các hiện tượng tự nhiên (cơn mưa, ánh nắng, tia chớp,…) và hiện tượng xã hội (cuộc chiến tranh, sự đói nghèo,…) nói trên.
Chính là loại DT có ý nghĩa trừu tượng (DT trừu tượng – đã nêu ở trên). Đây là loại DT không chỉ vật thể, các chất liệu hay các đơn vị sự vật cụ thể ,mà biểu thị các khái niệm trừu tượng như: tư tưởng, đạo đức, khả năng, tính nết, thói quen, quan hệ, thái độ,cuộc sống, ý thức , tinh thần, mục đích, phương châm,chủ trương, biện pháp, ý kiến, cảm tưởng, niềm vui, nỗi buồn, tình yêu, tình bạn,… Các khái niệm này chỉ tồn tại trong nhận thức, trong ý thức của con người, không “vật chất hoá”, cụ thể hoá được. Nói cách khác, các khái niệm này không có hình thù, không cảm nhận trực tiếp được bằng các giác quan như mắt nhìn, tai nghe,…
Hiểu theo nghĩa rộng, DT chỉ đơn vị là những từ chỉ đơn vị các sự vật. Căn cứ vào đặc trưng ngữ nghĩa, vào phạm vi sử dụng, có thể chia DT chỉ đơn vị thành các loại nhỏ như sau :
– DT chỉ đơn vị tự nhiên: Các DT này chỉ rõ loại sự vật, nên còn được gọi là DT chỉ loại. Đó là các từ: con, cái, chiếc; cục, mẩu, miếng; ngôi, tấm, bức; tờ, quyển, cây, hạt, giọt, hòn, sợi,…
– DT chỉ đơn vị đo lường: Các DT này dùng để tính đếm, đo đếm các sự vật, vật liệu, chất liệu,…VD: lạng, cân, yến, tạ, mét thước, lít sải, gang,…
– DT chỉ đơn vị tập thể: Dùng để tính đếm các sự vật tồn tại dưới dạng tập thể, tổ hợp. Đó là các từ: bộ, đôi, cặp, bọn, tụi, đàn, dãy, bó,…
– DT chỉ đơn vị thời gian: Các từ như: giây, phút, giờ, tuần, tháng, mùa vụ, buổi,…
– DT chỉ đơn vị hành chính, tổ chức: xóm, thôn, xã, huyện, nước, nhóm, tổ, lớp, trường, tiểu đội, ban, ngành,…
* Cụm DT:
– DT có thể kết hợp với các từ chỉ số lượng ở phía trước, các từ chỉ định ở phía sau và một số từ ngữ khác để lập thành cụm DT. Cụm DT là loại tổ hợp từ do DT và một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành.
Trong cụm DT, các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho DT các ý nghĩa về số và lượng. Các phụ ngữ ở phần sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà DT biểu thị hoặc xác định vị trí của sự vật ấy trong gian hay thời gian.
2. Động từ (ĐT): ĐT là những từ chỉ hoạt động, trạng thái của sự vật.
V.D: – Đi, chạy, nhảy,… (ĐT chỉ hoạt động)
– Vui, buồn, giận, … (ĐT chỉ trạng thái)
* Mấy lưu ý về ĐT chỉ trạng thái:
– Đặc điểm ngữ pháp nổi bật nhất của ĐT chỉ trạng thái là: nếu như ĐT chỉ hoạt động, hành động có thể kết hợp với từ xong ở phía sau (ăn xong, đọc xong ,…) thì ĐT chỉ trạng thái không kết hợp với xong ở phía sau (không nói: còn xong, hết xong, kính trọng xong, …). Trong TV có một số loại ĐT chỉ trạng thái sau :
+ ĐT chỉ trạng thái tồn tại (hoặc trạng thái không tồn tại): còn, hết, có,…
+ ĐT chỉ trạng thái biến hoá: thành, hoá,…
+ ĐT chỉ trạng thái tiếp thụ: được, bị, phải, chịu,…
+ ĐT chỉ trạng thái so sánh: bằng, thua, hơn, là,…
– Một số “nội ĐT” sau đây cũng được coi là ĐT chỉ trạng thái: nằm, ngồi, ngủ, thức, nghỉ ngơi, suy nghĩ, đi, đứng, lăn, lê, vui, buồn, hồi hộp, băn khoăn, lo lắng,… Các từ này có một số đặc điểm sau:
+ Một số từ vừa được coi là ĐT chỉ hành động, lại vừa được coi là ĐT chỉ trạng thái.
+ Một số từ chuyển nghĩa thì được coi là ĐT chỉ trạng thái (trạng thái tồn tại).
VD: Bác đã đi rồi sao Bác ơi! (Tố Hữu)
Anh ấy đứng tuổi rồi.
+ Một số từ mang đặc điểm ngữ pháp của TT (kết hợp được với các từ chỉ mức độ )
– Các “ngoại ĐT” sau đây cũng được coi là ĐT chỉ trạng thái ( trạng thái tâm lí ): yêu, ghét , kính trọng, chán, thèm, hiểu,…Các từ này mang đặc điểm ngữ pháp của TT, có tính chất trung gian giữa ĐT và TT.
– Có một số ĐT chỉ hành động dược sử dụng như một ĐT chỉ trạng thái.
VD: Trên tường treo một bức tranh.
Dưới gốc cây có buộc một con ngựa.
– ĐT chỉ trạng thái mang một số đặc điểm về ngữ pháp và ngữ nghĩa giống như TT. Vì vậy, chúng có thể làm vị ngữ trong câu kể: Ai thế nào?
– ĐT nội động :Là những ĐT hướng vào người làm chủ hoạt động (ngồi, ngủ, đứng,… ). ĐT nội động không có khả năng có bổ ngữ chỉ đối tượng trực tiếp mà phải có quan hệ từ.
V.D1: Bố mẹ rất lo lắng cho tôi
ĐT nội động Q.H.T Bổ ngữ
– ĐT ngoại động: là những ĐT hướng đến người khác, vật khác (xây, phá, đập, cắt,…). ĐT ngoại động có khả năng có bổ ngữ chỉ đối tượng trực tiếp.
V.D2: Bố mẹ rất thương yêu tôi.
ĐT ngoại động Bổ ngữ
– Để phân biệt ĐT nội động và ĐT ngoại động, ta đặt câu hỏi: ai ? cái gì ? đằng sau ĐT. Nếu có thể dùng 1 bổ ngữ trả lời trực tiếp mà không cần quan hệ từ thì đó là ĐT ngoại động (V.D2), nếu không được thì đó là ĐT nội động (V.D 1)
* Cụm ĐT:
– ĐT thường kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh (ở phía trước) và một số từ ngữ khác để tạo thành cụm ĐT. Cụm ĐT là loại tổ hợp từ do ĐT với một số từ ngữ phụ thuộc nó tạo thành. Nhiều ĐT phải có các từ ngữ phụ thuộc đi kèm, tạo thành cụm ĐT mới trọn nghĩa.
Trong cụm ĐT, các phụ ngữ ở phần trước bổ sung cho ĐT các ý nghĩa: quan hệ thời gian; sự tiếp diễn tương tự ;sự khuyến khích hoặc ngăn cản hành động; sự khẳng định hoặc phủ định hành động,…Các phụ ngữ ở phần sau bổ sung cho ĐT các chi tiết về đối tượng, hướng, địa điểm, thời gian, mục đích, nguyên nhân, phương tiện và cách thức hành động.
3. Tính từ (TT): TT là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của vật, hoạt động, trạng thái,…
* Có 2 loại TT đáng chú ý là:
– TT chỉ tính chất chung không có mức độ (xanh, tím, sâu, vắng,…)
– TT chỉ tính chất có xác định mức độ (mức độ cao nhất) (xanh lè, tím ngắt, sâu hoắm, vắng tanh,…)
* Phân biệt từ chỉ đặc điểm, từ chỉ tính chất, từ chỉ trạng thái:
– Từ chỉ đặc điểm:
Đặc điểm là nét riêng biệt, là vẻ riêng của một một sự vật nào đó ( có thể là người, con vật, đồ vât, cây cối,…). Đặc điểm của một vật chủ yếu là đặc điểm bên ngoài (ngoại hình ) mà ta có thể nhận biết trực tiếp qua mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi ngửi,… Đó là các nét riêng , vẻ riêng về màu sắc , hình khối, hình dáng, âm thanh,…của sự vật . Đặc điểm của một vật cũng có thể là đặc điểm bên trong mà qua quan sát,suy luận, khái quát,…ta mới có thể nhận biết được. Đó là các đặc điểm về tính tình, tâm lí, tính cách của một người, độ bền, giá trị của một đồ vật…
Từ chỉ đặc điểm là từ biểu thị các đặc điểm của sự vật, hiện tượng như đã nêu ở trên.
VD: + Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: Cao, thấp, rộng, hẹp, xanh, đỏ,…
+ Từ chỉ đặc điểm bên trong: tốt, ngoan, chăm chỉ, bền bỉ,…
– Từ chỉ tính chất:
Tính chất cũng là đặc điểm riêng của sự vật, hiện tượng (bao gồm cả những hiện tượng xã hội, những hiện tượng trong cuộc sống,…), nhưng thiên về đặc điểm bên trong, ta không quan sát trực tiếp được, mà phải qua quá trình quan sát, suy luận, phân tích, tổng hợp ta mới có thể nhân biết được. Do đó, từ chỉ tính chất cũng là từ biểu thị những đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng.
VD: Tốt, xấu, ngoan, hư, nặng, nhẹ, sâu sắc, nông cạn, suôn sẻ, hiệu quả, thiết thực,…
Như vậy, đối với HS tiểu học, khi phân biệt (một cách tương đối) từ chỉ đặc điểm và từ chỉ tính chất, GV có thể tạm thời cho rằng: Từ chỉ đặc điểm thiên về nêu các đặc điểm bên ngoài, còn từ chỉ tính chất thiên về nêu các đặc điểm bên trong của sự vật, hiện tượng. Một quy ước mang tính sư phạm như vậy được coi là hợp lí và giúp HS tránh được những thắc mắc không cần thiết trong quá trình học tập.
– Từ chỉ trạng thái:
Trạng thái là tình trạng của một sự vật hoặc một con người, tồn tại trong một thời gian nào đó. Từ chỉ trạng thái là từ chỉ trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan.
VD: Trời đang đứng gió.
Người bệnh đang hôn mê.
Cảnh vật yên tĩnh quá.
Mặt trời toả ánh nắng rực rỡ.
Xét về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là ĐT, có thể là TT hoặc mang đặc điểm của cả ĐT và TT (từ trung gian), song theo như định hướng trong nội dung chương trình SGK, ở cấp tiểu học, chúng ta thống nhất chỉ xếp chúng vào nhóm ĐT để HS dễ phân biệt.
* Cụm TT: Tính từ có thể kết hợp với các từ chỉ mức độ như : rất, hơi, lắm, quá, cực kì, vô cùng,… để tạo tạo thành cụm tính từ (khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh (như ĐT) ngay trước nó là rất hạn chế )
Trong cụm TT, các phụ ngữ ở phần trước có thể biểu thị quan hệ thời gian; sự tiếp diễn tương tự, mức độ của đặc điểm, tính chất, sự khẳng định hay phủ định. Các phụ ngữ ở phần sau có thể biểu thị vị trí, sự so sánh, mức độ, phạm vi hay nguyên nhân của đặc điểm, tính chất.
4. Cách phân biệt các DT, ĐT, TT dễ lẫn lộn:
Để phân biệt các DT, ĐT, TT dễ lẫn lộn, ta thường dùng các phép liên kết (kết hợp) với các phụ từ.
a – Danh từ:
– Có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng như: mọi, một, hai, ba, những, các,… ở phía trước (những tình cảm, những khái niệm, những lúc, những nỗi đau,…)
– DT kết hợp được với các từ chỉ định: này, kia, ấy, nọ, đó,… ở phía sau (hôm ấy, trận đấu này, tư tưởng đó,… )
– DT có khả năng tạo câu hỏi với từ nghi vấn “nào” đi sau (lợi ích nào? chỗ nào? Khi nào?…)
– Các ĐT và TT đi kèm: sự, cuộc, nỗi, niềm, cái,… ở phía trước thì tạo thành một DT mới (sự hi sinh, cuộc đấu tranh, nỗi nhớ, niềm vui,…)
– Chức năng ngữ pháp thay đổi cũng cũng dẫn đến sự thay đổi về thể loại:
V.D: Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ. (sạch sẽ (TT) đã trở thành DT)
b – Động từ:
– Có khả năng kết hợp với các phụ từ mệnh lệnh: hãy, đừng, chớ,… ở phía trước (hãy nhớ, đừng băn khoăn, chớ hồi hộp,…)
– Có thể tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ bao giờ hoặc bao lâu (TT không có khả năng này) (đến bao giờ? Chờ bao lâu?…)
c – Tính từ:
– Có khả năng kết hợp được với các từ chỉ mức độ như: rất, hơi, lắm, quá, cực kì, vô cùng,… (rất tốt, đẹp lắm,…)
Lưu ý: Các ĐT chỉ cảm xúc (trạng thái) như: yêu, ghét, xúc động,… cũng kết hợp được với các từ: rất, hơi, lắm,…. Vì vậy, khi còn băn khoăn một từ nào đó là ĐT hay TT thì nên cho thử kết hợp với hãy, đừng, chớ,… Nếu kết hợp được thì đó là ĐT.
III – BÀI TẬP THỰC HÀNH:
Bài 1: Cho các từ sau:
Bác sĩ, nhân dân, hi vọng, thước kẻ, sấm, văn học, cái, thợ mỏ, mơ ước, xe máy, sóng thần, chiếc, bàn ghế, gió mùa, xã, huyện, phấn khởi, tự hào, mong muốn, truyền thống, hoà bình.
a. Xếp các từ trên vào 2 loại: DT và không phải DT
b. Xếp các DT tìm được vào các nhóm: DT chỉ người, DT chỉ vật, DT chỉ hiện tượng, DT chỉ khái niệm, DT chỉ đơn vị.
Bài 2:
Tìm chỗ sai trong các câu sau và sửa lại cho đúng:
a) Bạn Vân đang nấu cơm nước.
b) Bác nông dân đang cày ruộng.
c) Mẹ cháu vừa đi chợ búa.
d) Em có một người bạn bè rất thân.
Bài 3:
Cho các từ: cánh đồng, tình thương, lịch sử. Hãy đặt thành 2 câu (với mỗi từ) sao cho trong 2 câu đó mỗi từ nằm ở 2 bộ phận chính khác nhau.
– Anh ấy đang suy nghĩ.
– Những suy nghĩ của anh ấy rất sâu sắc.
– Anh ấy sẽ kết luận sau.
– Những kết luận của anh ấy rất chắc chắn.
– Anh ấy ước mơ nhiều điều.
– Những ước mơ của anh ấy thật lớn lao.
a) Tuy rét vẫn kéo dài nhưng mùa xuân đã đến.
b) Những cành cây đang trổ lá, lại sắp buông toả những tán hoa.
Bài 6:
Xác định từ loại của các từ trong các thành ngữ:
– Đi ngược về xuôi.
– Nhìn xa trông rộng.
– Nước chảy bèo trôi.
Bài 7:
Xác định DT, ĐT, TT của các câu sau:
– Bốn mùa một sắc trời riêng đất này.
– Non cao gió dựng sông đầy nắng chang.
– Họ đang ngược Thái Nguyên, còn tôi xuôi Thái Bình.
– Nước chảy đá mòn.
Bài 8:
Xác định từ loại của những từ sau:
Niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình thương, yêu thương, đáng yêu.
Bài 9:
Xác định từ loại của những từ sau:
Sách vở, kiên nhẫn, kỉ niệm, yêu mến, tâm sự, lo lắng, xúc động, nhớ, thương, lễ phép, buồn, vui, thân thương, sự nghi ngờ, suy nghĩ, cái đẹp, cuộc vui, cơn giận dữ, trìu mến, nỗi buồn.
Từ Láy Là Gì? Cách Phân Biệt Từ Láy Và Từ Ghép
Ví dụ: Lấp lánh, tròn trịa, lung linh, lan man…
Mặc dù được cấu tạo từ những tiếng không có ý nghĩa, nhưng khi chúng đứng bên cạnh nhau, được ghép với nhau thì lại tạo thành một từ có nghĩa. Trong các văn bản văn học, các tác phẩm thơ ca, từ láy có tác dụng để miêu tả hình dạng, nhấn mạnh đặc điểm của tâm lý, tình trạng, tinh thần, tâm trạng… của con người, các hiện tượng, sự vật trong cuộc sống.
Như đã nói ở trên từ láy là các từ có thể giống nhau chỉ vần hoặc chỉ âm, hoặc có thể giống nhau hoàn toàn về âm và vần, chính vì vậy từ láy được chia làm 2 loại:
– Láy âm (nguyên âm): là những từ có phần âm lặp lại nhau.
Ví dụ: thấp thỏm, da dẻ, xinh xắn, ngơ ngác, gầm gừ…
– Láy vần (phụ âm): là những từ có phần vần lặp lại nhau.
Ví dụ: Chênh vênh, liêu xiêu, cheo leo, càu nhàu, bồi hồi…
– Những từ lặp lại nhau cả âm vf cả vần. Ví dụ: Luôn luôn, hằm hằm, xanh xanh, ào ào, dành dành…
– Hoặc để tạo sự tinh tế hài hòa về âm thanh, một số từ còn được thay đổi phụ âm cuối hoặc thanh điệu. Ví dụ: Thoang thoảng, lanh lảnh, ngoan ngoãn, ngồn ngộn, thăm thẳm…
2. Từ ghép là gì? Cách phân biệt từ láy và từ ghépTừ láy và từ ghép hai biện pháp tu từ mà rất nhiều người bị nhầm lẫn, khó phân biệt. Vậy làm sao để có thể phân biệt được hai loại từ này thì các bạn cần nắm chắc kiến thức về cả từ láy và từ ghép. Mời các bạn cùng đi tìm hiểu qua về nội dung kiến thức phần từ ghép.
Từ ghép chính là từ được ghép bởi 2 tiếng trở nên, các tiếng này có cùng quan hệ về mặt ý nghĩa với nhau và về mặt âm, vần không bắt buộc phải giống nhau.
2.1.2. Từ ghép có tác dụng gì?Tác dụng chủ yếu của từ ghép chính là đóng vai trò xác định những từ ngữ cần sử dụng trong lời nói, trong mỗi câu văn, giúp hoàn chỉnh hơn nữa về mặt ngữ nghĩa.
2.1.3. Từ ghép được phân loại như thế nào?Dựa và đặc điểm của từ ghép mà người ta phân từ ghép thành 2 loại: Đẳng lập, chính phụ.
Là từ được ghép từ 2 tiếng có sự phân biệt về nghĩa rất rõ ràng, từ đứng đầu là từ chính – từ chính đóng vai trò mang ý nghĩa trọng tâm, từ đứng sau là từ phụ – đóng vai trò bổ trợ ý nghĩa cho từ chính. Nói chung, ý nghĩa diễn đạt của loại từ ghép này thường hẹp.
Ví dụ: đỏ hoe, sân bay, hoa hồng, tàu hỏa, xanh nhạt…
Trong loại từ ghép đẳng lập, các từ có vai trò về ý nghĩa ngang nhau, không còn phân biệt đâu là từ chính, đâu là từ phụ. Ý nghĩa của từ ghép đẳng lập thể hiện rộng rãi hơn so với sử dụng từ ghép chính phụ.
Ví dụ: Bố mẹ. anh chị, nhà cửa, sách vở, bàn ghế, quần áo, ông bà, cỏ cây…
2.2. Phân biệt từ láy và từ ghépNhư các bạn cũng biết, Tiếng Việt vô cùng phong phú, đa dạng và chính điểm mạnh này lại là một hạn chế đối với người học bởi nó tạo ra nhiều sự phức tạp trong quá trình học. Tại sao mọi người lại có nhiều sự nhầm lẫn giữa từ láy và từ ghép đến như vậy? Đó chính là do giữa từ láy và từ ghép có sự chuyển hóa lẫn nhau. Tuy vậy, vẫn có các yếu tố cơ bản để giúp người học có thể phân biệt được từ láy và từ ghép.
Trong tiếng Việt những từ Hán Việt láy âm xuất hiện rất nhiều, chính vì vậy mà tất cả những từ Hán Việt có 2 âm tiết thì sẽ được xác định là từ ghép chứ không phải là từ láy, dù cho từ đó có ngẫu nhiên láy âm với nhau đi nữa.
Ví dụ: “Tử Tế” cùng láy nguyên âm “T” nhưng ở đây “Tử” là từ Hán Việt nên đây là từ ghép.
Ta tách 2 từ riêng biệt ra nếu cả 2 từ đều có ý nghĩa thì đó là từ ghép, còn 1 hoặc 2 từ tách ra vô nghĩa thì là từ láy.
Ví dụ các từ che chắn, máu mủ… thì sẽ được coi là từ ghép. Ngoài ra chỉ có một từ có nghĩa trong hai từ thì đó có thể coi là láy âm, ví dụ: lạnh lùng, lảm nhảm…
Khi đảo trật tự các tiếng trong một từ mà được một từ mới vẫn có nghĩa thì đó được coi là từ ghép. Ví dụ: thẫn thờ – thờ thẫn, mệt mỏi – mỏi mệt…
3.1 Bài tập nhận biết từ láyỞ dạng bài tập này, học sinh sẽ được đưa ra một danh sách các từ, trong đó có thể có nhiều loại từ như từ ghép, từ láy và học sinh phải nhận biết được đúng loại từ để sắp xếp sao cho đúng.
Cho danh sách từ sau, hãy sắp xếp chúng thành hai loại, từ ghép và từ láy: nhà cửa, sừng sững, lủng củng, hung dữ, mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc, thanh cao, giản dị, dũng cảm, hồi hộp, lẻ loi, chí khí.
Đáp án:
Từ láy bao gồm: sừng sững, lủng củng, mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp, hồi hộp, lẻ loi.
Từ ghép bao gồm: nhà cửa, hung dữ, vững chắc, thanh cao, giản dị, chí khí.
Lưu ý: đây là dạng bài tương đối dễ và dừng lại ở mức nhận biết, nên học sinh cần nắm chắc khái niệm về từ láy, từ ghép để phận biệt cho đúng, chuẩn.
3.2 Dạng bài xác định kiểu từ láyỞ dạng bài này, học sinh không những phải xác định đâu là từ láy mà còn phải biết được từ láy đó thuộc dạng nào, láy bộ phận hay láy toàn bộ.
Ví dụ cho các từ sau: mải miết, phẳng phiu, mong mỏi, mơ màng, líu lo, hun hút, thăm thẳm, tít tắp. Hãy cho biết các từ láy trên thuộc loại nào?
Đáp án: Từ láy bộ phận bao gồm: mải miết, phẳng phiu, mong mỏi, mơ màng, líu lo, tít tắp, hun hút,
Từ láy toàn bộ bao gồm: thăm thẳm.
Lưu ý: Dạng bài nhận biết loại từ ghép cũng là dạng bài tương đối dễ, học sinh cần nắm chắc lý thuyết về phân loại từ láy để đạt điểm cao trong dạng bài tập này.
3.3 Dạng bài xác định từ láy trong đoạn văn, đoạn thơ và nêu công dụngĐề bài thường sẽ cho một đoạn văn bản hoặc một đoạn thơ có chứa từ láy, học sinh cần tìm ra từ láy và nêu được tác dụng của từ láy trong văn bản. Ở dạng bài này, học sinh cần hiểu được nội dung, ý nghĩa của đoạn văn, đoạn thơ thì mới có thể phân tích được tác dụng của từ láy.
“Đêm về khuya lặng gió. Sương phủ trắng mặt sông. Những bầy cá nhao lên đớp sương “tom tóp”, lúc đầu còn loáng thoáng dần dần tiếng tũng toẵng xôn xao quanh mạn thuyền”.
Xác định từ láy trong văn bản và nêu tác dụng của từ láy đó.
Đáp án: Từ láy: tom tóp, loáng thoáng, tũng toẵng, xôn xao.
Tác dụng: những từ láy miêu tả âm thanh và tần suất xuất hiện của âm thanh xuất hiện trên dòng sông lúc đêm khuya tĩnh lặng. Từ láy góp phần miêu tả khung cảnh bờ sông về đêm, đồng thời tác giả cũng đã sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh để từ âm thanh tiếng cá đớp mồi, gõ vào mạn thuyền thể hiện sự tĩnh lặng của dòng sông về đêm, có thể nghe thấy từng âm thanh rất nhỏ.
Ví dụ 2: Xác định từ láy xuất hiện trong đoạn thơ sau, những từ láy đã góp phần làm nên thành công về giá trị biểu đạt của đoạn thơ như thế nào?
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời
Tay nhè nhẹ chút, người ơi
Trông đôi hạt rụng hạt rơi xót lòng.
Mảnh sân trăng lúa chất đầy
Vàng tuôn trong tiếng máy quay xập xình
Nắng già hạt gạo thơm ngon
Bưng lưng cơm trắng nắng còn thơm tho.
Đáp án: Từ láy: chói chang, long lanh, nhè nhẹ, xập xình, thơm tho.
Tác dụng: nhà thơ đã sử dụng hàng loạt các từ láy có giá trị biểu cảm, miêu tả cao, khiến đoạn thơ đậm chất trữ tình, người đọc có thể hình dung ra được những vất vả, cực nhọc mà người nông dân phải trải qua để có được hạt gạo trắng ngần thơm tho.
Ví dụ 3: Phân tích tác dụng của từ láy có trong đoạn văn sau
Bản làng đã thức giấc. Đó đây, ánh lửa hồng bập bùng trên các bếp. Ngoài bờ ruộng đã có bước chân người đi, tiếng nói chuyện rì rầm, tiếng gọi nhau í ới.
Tảng sáng, vòm trời cao xanh mênh mông. Gió từ trên đỉnh núi tràn xuống thung lũng mát rượi.
Đáp án: Từ láy: bập bùng, rì rầm, í ới, mênh mông.
Tác dụng: Từ láy “bập bùng” khiến người đọc hình dung ra ngọn lửa cháy to, cháy đều trong đêm. Những tiếng “rì rầm, í ới” diễn tả âm thanh của cuộc sống, đã bắt đầu sôi động vào buổi sáng sớm. Từ láy “mênh mông” diễn tả không gian bầu trời rộng lớn vào buổi sáng sớm.
Ví dụ 4: Chỉ ra từ láy và phân tích tác dụng của từ láy đó trong đoạn thơ sau trong bài “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy:
“Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre chẳng ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi người”.
Đáp án: Từ láy “bão bùng” được sử dụng để thể hiện những khắc nghiệt của thời tiết, nhưng tre vẫn đùm bọc lấy nhau. Nhà thơ đã ca ngợi phẩm chất đoàn kết, biết giúp đỡ, bao bọc của cây tre, từ đó ẩn dụ để chỉ những phẩm chất cao đẹp của người Việt Nam.
Ví dụ 5: Câu thơ của Nguyễn Du trong “Truyện Kiểu” có sử dụng từ láy lập lòe để miêu tả sắc đỏ của hoa lựu mùa hè:
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”
Từ láy lập lòe đã gợi lên sắc đỏ của hoa lựu, một sắc đỏ rực ẩn hiện sau tán lá.
Lưu ý: bài tập xác định và phân tích từ láy là dạng bài khó, đòi hỏi học sinh không những nắm vững kiến thức về từ vựng mà còn phải có khả năng đọc hiểu và cảm thụ văn bản. Với dạng đề này, học sinh cần phải thực hành luyện tập nhiều để có thể đạt được điểm số cao khi làm các bài tập làm văn.
3.6 Mở rộng bài tập tự luyệnXác định từ láy trong những đoạn thơ sau trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu:
-Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
-Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
-Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son
-Ta với mình, mình với ta,
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
-Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Xác định từ láy trong bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận:
-Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
-Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
-Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
-Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trong bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến:
-Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Trong bài “Thu ẩm”, Nguyễn Khuyến:
-Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Trong bài “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu:
-Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
-Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
-Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Trong bài “Thu” của Xuân Diệu:
-Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu;
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.
Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;
Cành biếc run run chân ý nhi
-Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,
Hây hây thục nữ mắt như thuyền.
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu,
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên
Từ láy trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng
-Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
-Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
-Rải rác biên cương mồ viễn xứ
-Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Từ láy trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
-Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
-Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không
Từ láy trong bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ:
-Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Từ Láy Là Gì? Cách Phân Biệt Từ Láy Và Từ Ghép?
Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta sử dụng rất nhiều từ láy, từ láy có thể xuất hiện trong các văn bản, hay trong các cuộc giao tiếp, đối thoại hằng ngày. Tuy nhiên với nhiều người, do chưa hiểu cụ thể về loại từ này, nên đã có những nhầm lẫn khi sử dụng từ láy. Vậy từ láy là gì? Và cách phân biệt từ láy và từ ghép ra sao?
Từ láy là gì?Từ láy là từ được cấu tạo từ hai tiếng, được tạo nên bởi các tiếng giống nhau về âm, về vần hoặc cả âm và vần. Trong đó có thể có 1 tiếng có nghĩa hoặc tất cả các tiếng đều không có nghĩa, khi đó 2 từ được ghép với nhau tạo nên một từ có nghĩa.
Ví dụ: ào ào, xanh xanh, thăm thẳm, lanh lảnh, ……
Phân loại từ láyDựa vào cấu trúc, cấu tạo giống nhau của các bộ phận thì từ láy được chia thành hai loại chính là từ láy toàn bộ và từ láy bộ phận.
Từ láy toàn bộ: Là loại từ được láy giống nhau cả phần âm, vần, dấu câu ví dụ như xanh xanh, luôn luôn, ào ào.
Đôi khi để nhấn mạnh và tạo sự tinh tế hài hòa về âm thanh, một số từ còn được thay đổi phụ âm cuối hoặc thanh điệu. Ví dụ: Thoang thoảng, lanh lảnh, ngoan ngoãn.
Từ láy bộ phận: Là loại từ được láy giống phần âm hoặc phần vần, dấu câu có thể giống hoặc khác tùy vào cách người dùng muốn:
– Láy âm: Là những từ có phần âm lặp lại nhau.
Ví dụ: Mênh mông, miên man, xinh xắn, ngơ ngác, mếu máo…
– Láy vần: Là những từ có phần vần lặp lại nhau.
Ví dụ: Chênh vênh, liêu xiêu, lao xao, liu diu.
Từ láy bộ phận thường được sử dụng nhiều hơn từ láy toàn bộ vì dễ phối vần và âm.
Cách phân biệt từ ghép và từ láyTiếng Việt vốn nổi tiếng phong phú và phức tạp. Tiếng Việt cũng có một loại từ nữa đó là từ ghép, khá giống với từ láy. Và để phân biệt từ láy và từ ghép thì không phải ai cũng làm được, có một vài cách giúp chúng ta phân biệt được hai loại từ này mà bạn có thể tham khảo như sau:
Cách 1: Láy âm là từ ghép nghĩa
Một trong 2 từ là từ Hán Việt. Nếu một trong hai từ thuộc từ Hán Việt thì đó chính là ghép chứ không phải từ láy.
Ví dụ như từ “Tử tế” thì “tử” là từ Hán Việt, cho dù nó láy âm đầu nhưng vẫn được xác định là từ ghép.
Cách 2: Nghĩa của các từ tạo thành. Từ mà hai âm tiết đều có nghĩa cụ thể thì không thể là từ láy, đó là từ ghép.
Ví dụ: máu mủ, trai trẻ, che chắn…
Ngược lại, nếu chỉ một tiếng có ý nghĩa thì đó là láy âm. ví dụ: lảm nhảm, lạnh lùng…
Cách 3: Nếu hai tiếng trong từ có thể đảo trật tự thì đó là từ ghép. Khi chúng ta đảo trật tự từ các tiếng trong một từ được thì đó chính là từ ghép. Bởi vì, láy âm nhìn chung là không đảo được trật tự từ.
Ví dụ: mờ mịt/mịt mờ, thẫn thờ/thờ thẫn…
Phân Biệt Từ Đơn, Từ Ghép, Từ Láy
Tác giả: Hoàng Dân
Sau khi đọc bài của Vũ Nho, tác giả Hoàng Dân, một cộng tác viên thân thiết của trang chúng tôi có gửi đến bài viết sau. Trân trọng cám ơn tác giả và giới thiệu cho các bạn đọc quan tâm.
V. Các nhóm từ sau đây là từ đơn, từ ghép hay từ láy? Tại sao?
1. Nhóm từ: ba ba, chuồn chuồn, cào cào, châu chấu, chôm chôm, thuồng luồng, núc nác, quốc quốc, gia gia, chà là, chích choè, chão chuộc…
– Cách 1 (dùng cho học sinh tiểu học): gọi là từ láy
– Cách 2 (đối với học sinh THCS, THPT): gọi là từ đơn đa âm (hoặc từ láy giả), có chức năng định danh – tức là gọi tên sự vật.
* Bản chất: là các từ láy giả, tức là có hình thức giống như từ láy nhưng không phải từ láy đích thực
2. Nhóm từ: bồ hóng, bồ kết, bọ nẹt, bọ xít, sâu róm, diều hâu, dưa hấu, bù nhìn, tre pheo (thực ra “pheo” có nghĩa), bếp núc (“núc” có nghĩa), chó má (“má” có nghĩa”), chợ búa, đường sá, người ngợm…
– Cách 1 (dùng cho học sinh tiểu học): gọi là từ ghép
– Cách 2 (THCS, THPT): gọi là từ đơn đa âm
* Bản chất: là các từ ghép ngẫu hợp (ngẫu nhiên có hai tiếng ghép với nhau và chỉ có một trường hợp duy nhất, ví dụ “hấu” chỉ ghép với “dưa”, ngoài ra không ghép với tiếng nào khác, trong khi đó “dưa gang” có thể gặp ở “chảo gang, gang thép” – tất nhiên nghĩa của “gang” trong “dưa gang” và “chảo gang” là khác nhau), trong đó có một tiếng bị hư nghĩa hoặc mờ nghĩa.
3. Nhóm từ: bảo ban, bồng bế, đền đài, đất đai, đấu đá, đèn đuốc, ruộng rẫy, miếu mạo, chùa chiền, làm lẽ, làm lành…
* Bản chất: là các từ ghép vì hai tiếng đều có nghĩa, sự trùng hợp về âm thanh giữa hai tiếng chỉ mang tính ngẫu nhiên. Nói cách khác, trường hợp vừa có quan hệ về nghĩa vừa có quan hệ láy âm như nhóm từ trên được một số nhà Việt ngữ học thống nhất: ưu tiên nghĩa gọi là từ ghép.
4. Nhóm từ: ngày ngày, người người, tối tối, sáng sáng, chiều chiều, đêm đêm, nhỏ nhỏ, bé bé, tím tím, đỏ đỏ, xanh xanh, đen đen…
– Cách 1 (dùng cho học sinh tiểu học): gọi là từ láy
– Cách 2 (đối với các nhà Việt ngữ học): còn nhiều ý kiến tranh cãi, cụ thể:
+ Trường hợp a: “nhỏ nhỏ, bé bé, tím tím, đỏ đỏ, trắng trắng” có thể biến âm thành “nho nhỏ, be bé, tim tím, đo đỏ, trăng trắng” và được coi là từ láy (nho nhỏ = hơi nhỏ, tim tím = hơi tím…).
+ Trường hợp b: “ngày ngày, người người, chiều chiều, đêm đêm, nhà nhà, ngành ngành” được coi là hiện tượng lặp từ (ngày ngày = ngày nào cũng thế, nhà nhà = nhà nào cũng thế…).
+ Trường hợp c: “xanh xanh, đen đen, nâu nâu, vàng vàng” không có khả năng biến âm như trường hợp (a), nhưng cũng không hoàn toàn như trường hợp (b), chúng được coi là các từ láy toàn bộ hoặc từ láy tuyệt đối (xanh xanh = hơi xanh, vàng vàng = hơi vàng).
+ Trường hợp d: “tối tối, sáng sáng” còn phức tạp hơn. Khả năng thứ nhất, chúng biến âm thành “tôi tối, sang sáng”với nghĩa là “hơi tối, hơi sáng” (trời đã tôi tối rồi, trời đã sang sáng rồi). Khả năng thứ hai, chúng cũng là hiện tượng lặp từ với nghĩa là “tối nào cũng như vậy, sáng nào cũng như vậy” ( tối tối, tôi đi ngủ vào lúc 22 giờ / sáng sáng, tôi dậy vào lúc 6 giờ) (Hoàng Dân: Bài tập tiếng Việt THCS&THPT. NXB Thanh niên.2011)
VII. Phân biệt từ ghép và từ láy*
Vốn từ tiếng Việt rất phong phú và phức tạp, trong đó hiện tượng nhập nhằng giữa từ ghép và từ láy cũng khá phổ biến về cả số lượng lẫn tính chất phức tạp của nó. Các nhà ngôn ngữ học đang tiếp tục công việc tìm kiếm những bằng chứng để góp phần phân định ranh giới giữa hai loại từ này. Tuy nhiên, ngay trong hiện tại, mỗi loại từ cũng đã có những đại diện điển hình cho nó. Nó chắc chắn là từ ghép hoặc từ láy chứ không thể có chuyện nhập nhằng cả gói được! Đây chính là điều mà chúng ta cần phải lưu ý khi sử dụng chúng.
Cách phân biệt này gồm một tập hợp 6 tiêu chí như sau:
1. Đảo các yếu tố trong từ:
Trong từ láy thường có một yếu tố gốc. Yếu tố ấy có thể còn rõ nghĩa hoặc đã mờ nghĩa, nhưng nó thường đứng ở một vị trí nhất định (trước hoặc sau yếu tố láy), nghĩa là không thể đảo được trật tự của các yếu tố trong từ láy. Vì thế, nếu một từ phức (gồm 2 yếu tố = 2 tiếng) có thể đảo được thì đó là từ ghép.
Ví dụ: Các từ sau sẽ là từ ghép:
Lả lơi, thì thầm, ngẩn ngơ, thẫn thờ, mù mịt, đau đớn, đảo điên, hắt hiu, hờ hững, khát khao, khắt khe, lãi lờ, manh mối, ngại ngần, ngào ngạt, ngây ngất, ngấu nghiến, tha thiết…
2. Xem xét ý nghĩa của các yếu tố:
Nếu không đảo được, nhưng cả hai yếu tố của từ phức đều có nghĩa thì từ phức ấy là từ ghép bởi vì từ láy chỉ có một yếu tố có nghĩa.
Ví dụ: Các từ sau đây sẽ là từ ghép:
đền đài, đất đai, ruộng rẫy, chùa chiền (chiền nghĩa là chùa), bợm bãi (bãi: kẻ lừa dối), tơ tưởng (tơ: yêu), đồn đại (đại: biến âm từ đãi, cũng có nghĩa là đồn), thành thực, đu đưa, đình đốn, duyên dáng, hài hòa, lê la, hão huyền, vá víu, vân vê…
3. Xem xét khả năng kết hợp của một yếu tố chưa rõ nghĩa:
Nếu trong từ phức có một yếu tố chưa rõ nghĩa (qui ước là Y) có khả năng kết hợp với nhiều yếu tố gốc (qui ước là X) khác nhau thì từ phức đó thường là từ ghép.
Ví dụ: Các từ sau được coi là từ ghép:
X: rạng, rực; Y: rỡ; Từ ghép: rạng rỡ, rực rỡ
X: trọc, khóc, lăn, cóc; Y: lóc; Từ ghép: trọc lóc, khóc lóc, lăn lóc, lóc cóc
X: lê, liếm, lâu, lân, đà…; Y: la; Từ ghép: lê la, la liếm, lâu la, lân la, la đà, la hét, rầy la, kêu la, la lối, la liệt…
4. Xem xét qui luật hài thanh:
Nếu các yếu tố trong một từ phức có thanh điệu không cùng âm vực thì từ phức ấy là từ ghép.
– âm vực cao: ngang (không), hỏi, sắc
– âm vực thấp: huyền, ngã, nặng
Ví dụ: Các từ sau đây sẽ là từ ghép:
khít khịt (cao – thấp, không cùng âm vực), phứa phựa, tí tị, tú ụ, chói lọi, cuống cuồng, sóng soài, dúi dụi, thớ lợ, ân cần, nháo nhào… hộc tốc (thấp – cao), cộc lốc, trọc lóc, trật lất, lạng lách, đìu hiu, tạp nham, gọn lỏn…
5. Xem xét qui luật hòa phối nguyên âm:
Nếu các yếu tố trong một từ phức có phụ âm đầu giống nhau, nhưng nguyên âm làm âm chính (cả đơn và đôi) không có cùng độ mở thì từ phức ấy là từ ghép.
– Hàng (dòng) trước, không tròn môi: i, iê (độ mở hẹp), ê (hơi hẹp), e (hơi rộng)
– Hàng sau, không tròn môi: ư, ươ (hẹp), ơ và â (hơi hẹp), a và ă (rộng)
– Hàng sau, tròn môi: u, uô (hẹp), ô (hơi hẹp), o (hơi rộng)
Ví dụ: Các từ sau đây được coi là từ ghép:
hể hả, nhuế nhóa, xuề xòa, lúc lắc, tung tăng, vùng vằng, rỉ rả, xí xóa, chỉ trỏ, nguôi ngoai, dối dá, cứng cỏi, phì phạch, chen chúc…
6. Dựa vào nguồn gốc của từ:
Các từ láy là sản phẩm của phương thức láy, một phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt; do đó chúng là những từ thuần Việt. Các từ Hán Việt không phải là từ láy, cho dù chúng có sự trùng lặp nào đó về ngữ âm.
Ví dụ: Các từ sau sẽ là từ ghép:
linh tinh, lục tục, mĩ mãn, nhũng nhiễu, nhã nhặn, vĩnh viễn, lẫm liệt, ngôn ngữ, nhục nhã, tâm tính, tinh tú, tham lam, náo nức, khát khao, hội họa, thi thư, lí lịch, báo cáo, phu phụ, hải hà, biên niên, bức bách, lí luận, lao lung, lao lí, biến thiên, thất thố, ban bố…
Căn cứ vào 6 tiêu chí nhận biết từ ghép trên thì các từ láy đích thực phải đồng thời thỏa mãn những điều kiện sau:
(1) Không đảo được các yếu tố/(2) Chỉ có một yếu tố có nghĩa/(3) Không có một yếu tố chung cho nhiều từ phức/(4) Các thanh điệu phải cùng âm vực/(5) Phụ âm đầu giống nhau, âm chính là nguyên âm phải có cùng độ mở/(6) Phải là từ thuần Việt.
(Theo chúng tôi Nguyễn Đức Tồn: Những vấn đề dạy và học Tiếng Việt trong nhà trường. NXB ĐHQG Hà Nội. 2001)
4. Hiện nay chương trình, SGK Tiếng Việt THCS chọn đơn vị nào làm căn cứ để phân loại từ theo cấu tạo? Ưu điểm và nhược điểm của việc lựa chọn đơn vị ấy? Nêu những vấn đề cần lưu ý khi dạy phân loại từ theo cấu tạo ở THCS.
Hiện nay chương trình, SGK tiếng Việt THCS căn cứ vào đơn vị “tiếng” để phân loại từ theo cấu tạo.
I. Ưu điểm và nhược điểm:
– Phù hợp với đặc điểm đơn lập của tiếng Việt.
– Phù hợp với khả năng nhận biết, ghi nhớ, viết chính tả của người bản ngữ.
– Phù hợp với đặc điểm tư duy cụ thể của HS THCS.
Gây khó khăn trong việc phân loại một số từ như: từ vay mượn tiếng Ấn-Âu (ra-đi-ô, pê-ni-xê-lin, ma-két-tinh…), từ đơn đa âm (mặc cả, mồ hôi, bồ hóng, bù nhìn, bồ kết, tắc kè, ễnh ương…), từ láy giả (ba ba, chuồn chuồn, thuồng luồng, cào cào…)
II. Những vấn đề cần lưu ý:
1. Không đưa các từ đơn đa âm (có người gọi là từ ghép ngẫu kết) và từ vay mượn làm ngữ liệu để hình thành khái niệm khi dạy học. Ví dụ: bồ kết, bồ hóng, bù nhìn, mặc cả, tắc kè, ễnh ương, mắc cọt, ác là, chão chuộc, chèo bẻo, bồ các, mồ hôi…, a-pa-tít, pô-pơ-lin, in-tơ-nét, ma-két-tinh, ra-đi-ô…
2. Nếu các tiếng trong từ vừa có quan hệ về âm, vừa có quan hệ về nghĩa thì ưu tiên nghĩa, gọi là từ ghép. Ví dụ: đi đứng, tươi tốt, buôn bán, mặt mũi, hốt hoảng, nhỏ nhẹ, học hỏi, hoa hồng, cá cơm, cá cảnh, đền đài, đất đai, ruộng rẫy, chùa chiền…
3. Các từ có quan hệ về âm nhưng không xác định được hình vị gốc vẫn xếp vào từ láy (bản chất là các từ đơn đa âm). Ví dụ: chuồn chuồn, cào cào, ba ba, chôm chôm, thuồng luồng…
4. Một số từ có quan hệ về âm nhưng được viết bằng các con chữ khác nhau vẫn gọi là từ láy (thực ra là phụ âm /k/ được ghi bằng 3 con chữ: c, k, q). Ví dụ: cò kè, ki cóp, keo cú, cao kều, qui củ, quỉ kế, cong queo, cuống quýt, công kênh, cập kênh…
5. Một số từ mà các tiếng trong từ không có phụ âm đầu vẫn được xếp vào từ láy (chúng có quan hệ hài thanh, tức là thanh điệu có cùng âm vực cao hoặc thấp. Ví dụ: êm ái, êm ả, ấm áp, ấm ức, ốm o, ầm ĩ, óc ách, inh ỏi, ồn ã, oai oái…
6. Không xếp từ Hán Việt vào từ láy. Ví dụ: mĩ mãn, lục tục, tinh tú, bao biện, nhũng nhiễu, nhã nhặn, lẫm liệt, hội hoạ, thi thư, hải hà, biên niên, bức bách, lí luận, lao lung, lao lí, thất thố, ban bố…
(Hoàng Dân: Hỏi-Đáp tiếng Việt&Chính tả. Sách lưu hành nội bộ của Trung tâm bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng Tâm Trí Đức, quận Long Biên, HN)
Hoàng Mai @ 10:49 20/08/2023 Số lượt xem: 5855
Một Số Cách Phân Biệt Từ Ghép, Từ Láy
Phân biệt từ ghép và từ láy vốn rất phức tạp. Bởi vậy Tiếng Việt có sự chuyển hoá từ từ ghép sang từ láy âm. Lại không ít trường hợp phân tích rạch ròi giữa là ghép hay láy đành xếp chúng vào đơn vị trung gian. Tuy nhiên cũng có một số cách nhận diện, phân biệt từ láy, từ ghép.
Cách 1 : Láy âm là phương thức cấu tạo riêng của từ Tiếng Việt, Từ Hán Việt nói chung không có dạng láy âm( trừ trường hợp yếu tố gốc Hán đã được Việt hoá hoàn toàn ) . Cho nên, nếu biết chắc chắn một từ hai âm tiết là từ Hán Việt thì xác định nó là từ ghép nghĩa chứ không phải là từ láy âm, dù bề ngoài có dạng láy âm ngẫu nhiên.
Ví dụ: cập kê, lãng đãng, tư lự, tử tế….. Dĩ nhiên muốn áp dụng cách này cần không ngừng bổ sung kiến thức về từ ngữ gốc Hán
Cách 2 : Ranh giới để phân biệt một từ thuần Việt và một từ láy đôi thuần Việt là : Ở từ ghép hai âm tiết, cả hai tiếng đều có nghĩa.
Ví dụ: che chắn, trai trẻ, máu mủ…… Còn từ láy đôi thì chỉ một tiếng gốc là có nghĩa, còn tiếng kia là tiếng láy lại, không có nghĩa hoặc mất nghĩa, có trường hợp cả hai tiếng đều vô nghĩa.
Có thể phân biệt bằng cách tách riêng từng tiếng, nếu mỗi tiếng khi đứng độc lập đều có nghĩa thì đó là từ ghép song song ( hoặc đẳng lập).
Ví dụ: đau đớn, khao khát, lãi lời, đau đớn, ngây ngất……nếu chỉ một tiếng có nghĩa thì đó là láy âm. Ví dụ: lạnh lùng, làm lụng, phập phồng, lảm nhảm……chỉ có tiếng lạnh, làm, phồng, nhảm …là tiếng gốc có nghĩa .
Cách 3 : Đảo trật tự các tiếng trong từ hai âm tiết nghi vấn. Nếu đảo được thì đó là từ ghép nghiã ( Vì láy âm nói chung – không đảo được).
Ví dụ : đoạ đày/ đày đoạ, gìn giữ/ giữ gìn, mờ mịt/ mịt mờ, ngơ ngẩn/ ngẩn ngơ, thẫn thờ/ thờ thẫn,….. đều có thể đảo trrật tự các tiếng trong từnên là các từ ghép nghĩa. Các từ : lạnh lùng, tần ngần, ngỡ ngàng, rõ ràng, thấm thoắt , thập thò….là các từ láy âm.
Cách này có mặt hạn chế là do quy luật ngữ âm hoặc do người dùng muốn tạo sự mới mẻ nên một số từ láy âm đích thực cũng đảo được trật tự . Ví dụ : nhớ nhung/ nhung nhớ, da dết/ diết da, nhố nhăng/ nhăng nhố….nên có thể gây ra nhầm lẫn.
Cách 4 : Gặp một số từ phức trong đó có một tiếng nào đó không rõ nghĩa , nếu thấy xuất hiện trong một số tù phức có tiếng gốc khác nhau thì thường từ phức đó là từ ghép nghĩa.
Ví dụ : thành tố rỡ trong các từ: rạng rỡ, mừng rỡ, rực rỡ. ……
Đinh Thị Thu Tình @ 20:22 22/11/2023 Số lượt xem: 3503
Cập nhật thông tin chi tiết về Cách Phân Biệt Từ Ghép, Từ Láy Dễ Lẫn Lộn trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!