Xu Hướng 3/2023 # Biện Pháp Về Công Tác Chủ Nhiệm Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Học Tập # Top 10 View | Channuoithuy.edu.vn

Xu Hướng 3/2023 # Biện Pháp Về Công Tác Chủ Nhiệm Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Học Tập # Top 10 View

Bạn đang xem bài viết Biện Pháp Về Công Tác Chủ Nhiệm Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Học Tập được cập nhật mới nhất trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Công tác chủ nhiệm quyết định không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh.

Một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập

Công tác chủ nhiệm quyết định không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Làm tốt công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã hoàn thành tốt việc giảng dạy các bộ môn và tổ chức giáo dục, rèn luyện đạo đức cho học sinh. Đặc biệt trong nhà trường, vai trò của người giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng. Giáo viên chủ nhiệm thay mặt nhà trường quản lý điều hành lớp, trực tiếp giáo dục tư tưởng đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh, là cầu nối giữa ba môi trường giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công của người giáo viên bởi yêu cầu ngày càng cao của xã hội đang phát triển, bởi tình hình cuộc sống vẫn đang tồn tại những tác động xấu đến học sinh, bởi sự mưu sinh của gia đình nên không ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường.

Công tác chủ nhiệm

1. Biện pháp 1: Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp

– Khảo sát đối tượng thông qua hồ sơ học bạ, qua giáo viên chủ nhiệm cũ, qua học sinh trong lớp hoặc qua phụ huynh.

– Tiến hành phân loại đối tượng để đưa vào sổ kế hoạch công tác chủ nhiệm, cụ thể: + Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn.

+ Học sinh khuyết tật.

+ Học sinh các biệt về đạo đức.

+ Học sinh yếu.

+ Học sinh có những năng lực đặc biệt.

* Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

* Đối với những học sinh khuyết tật.

* Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:

– Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…

– Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng bước điều chỉnh mình.

* Đối với học sinh học yếu:

– Tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu những môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.

– Giáo viên lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:

+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời gian ngoài giờ lên lớp .

+ Đưa ra những câu hỏi từ dễ đến khó để học sinh có thể trả lời được nhằm tạo hứng thú và củng cố niềm tin ở các em.

+ Thường xuyên kiểm tra các đối tượng đó trong qua trình lên lớp.

+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học sinh yếu kém tiến bộ.

+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.

+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí, xấu hổ trước bạn bè. Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.

Nếu bạn không có nhiều kinh nghiệm trong việc viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp. Bạn cần đến dịch vụ làm hộ luận văn thạc sĩ để giúp mình hoàn thành những bài luận đúng deadline? Khi gặp khó khăn về vấn đề viết luận văn, luận án hay khóa luận tốt nghiệp, hãy nhớ đến Tổng đài tư vấn luận văn 1080, nơi giúp bạn giải quyết những khó khăn mà chúng tôi đã từng trải qua.

Một số biện pháp về công tác chủ nhiệm nhằm nâng cao chất lượng học tập

2. Biện pháp 2: Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra.

Như chúng ta đã biết xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi là việc rất quan trọng người giáo viên làm công tác chủ nhiệm phải có kế hoạch thực hiện.Hơn nữa, để đội ngũ cán bộ lớp cùng giáo viên chủ nhiệm đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện nề nếp học tập của các bạn là công việc cần thiết và có ích.

– Trước hết , những học sinh được chọn làm cán bộ lớp bao giờ cũng phải gương mẫu trước các bạn về mọi mặt: Học tập, kỷ luật, tham gia các hoạt động, đối xử với bạn bè….

– Sau đó hằng ngày, hàng tuần, các cán bộ lớp bao gồm: lớp trưởng,2 lớp phó , 4 tổ trưởng, 4 tổ phó. . sẽ tiến hành công việc của mình như sau:

*Đầu giờ (trước giờ truy bài):

Tổ trưởng, tổ phó kiểm tra những việc sau: soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng dậy học,có ý thức xem bài trước, đi học đúng giò, không mang dép lê….rồi tổ trưởng chấm điểm thi đua theo qui đinh như sau: (vi phạm 1 nội dung trừ: 2 điểm xấu )

*Trong giờ học:

Tổ trưởng, tổ phó theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài, đạt điểm cao trong học tập thì cộng điểm thưởng như sau: Đạt điểm 10 một môn thì cộng 5 điểm tốt, phát biểu xây dựng bài cộng 1đ/1lần. nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/ 1lần.

*Giờ ăn ngủ bán trú:

Tổ trưởng,Tổ phó theo dõi các tổ viên các nề nếp: ăn, ngủ đúng thời gian..( nếu vi phạm trừ 2đ/ 1 lần ) Biện pháp 3: .Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh

* Đối vói Ban đại diện CMHS lớp: Từ đầu năm học. Tôi đã định hướng bầu chọn Ban đại diện phụ huynh của lớp với các tiêu chuẩn sau:

– Phụ huynh có đời sống kinh tế ổn đinh.

– Có tâm huyết, nhiệt tình tất cả vì học sinh thân yêu.

– Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục – Có con em học khá giỏi.

* Ban phân hội lớp gồm 3 thành viên: Trưởng ban, phó ban, thư ký

* Nhiệm vụ ban phân hội lớp:

– Kết hợp với GVCN lớp theo dõi, động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học sinh. Đặc biệt quan tâm đến các phong trào lớp

– Nắm rõ được hoàn cảnh gia đình, chỗ ở của từng học sinh để kịp thời thăm hỏi. – Có kế hoạch khen thưởng kịp thời học sinh lớp tiến bộ theo từng tuần, tháng, theo các đợt kiểm tra định kỳ của nhà trường.

* Đối với từng phụ huynh học sinh: Buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng GVCN rèn nề nếp học sinh như sau:

– Hằng ngày kiểm tra sách vở của con em mình.

– Nhắc nhở con em học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp.

– Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con em theo thời khoá biểu hằng ngày.

– Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi.

– Sinh hoạt điều độ, đúng thời khoá biểu, giờ nào việc nấy tránh tình trạng vừa học vừa chơi. – Thường xuyên trao đổi với GVCN qua trò chuyện trực tiếp, điện thoại hoặc qua sổ liên lạc để kịp thời nhắc nhở, đôn đốc học sinh nề nếp học tập ở lớp cũng như ở nhà.

Biện pháp 4: Đầu tư các phong trào mũi nhọn nhà trường tổ chức Từ đầu năm học GVCN dựa vào kế hoạch của nhà trường và các đoàn thể trong trường phải đề ra chỉ tiêu cụ thể cho lớp cùng phấn đấu trong các phong trào chung của nhà trường như: Vở sạch chữ đẹp, Vẽ tranh, Kể chuyện, cờ vua,….

– Điều quan trọng là GVCN phải phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…

– Phối hợp với phụ huynh lập kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên cho các học sinh có năng khiếu nói trên.

– Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua những hội thi,Tổ chức các sân chơi ở lớp như: Rung chuông vàng, đối mặt trong các tiết HĐNGLL để phát huy và chọn lọc nhữn HS có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức. Biện pháp 5: Nêu gương và khen thưởng

– Nắm được tâm lý của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi hướng dẫn Ban cán sự lớp lập bảng chấm điểm thi đua từng HS như sau:

– Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt các phong trào học tập cũng như các phong trào khác như sau:

+ Mỗi tuần tặng 1 cây bút cho mỗi HS đạt số điểm tốt cao nhất tổ.

+ Mỗi đợt kiểm tra định kỳ tặng một 1 bút/ 1HS đạt điểm 10 mỗi môn.

+ Tặng một phần quà cho HS đạt phong trào nhà trường đề ra.

– Sau mỗi tuần thi đua, Lớp trưởng đánh giá chung các mặt hoạt động, tổ trưởng đánh giá cụ thể các mặt học tập cũng như hoạt động của từng thành viên trong tổ thông qua bảng điểm . sau đó bầu chọn một HS tuyên dương trước lớp và nhận thưởng.

– Để tránh trường hợp một em nhận liên tục nhiều lần, theo qui ước 3 tuần mới được nhận thưởng lại ( nếu em đó điểm nhất tổ thì chọn em điểm nhì tổ..)

Một Số Biện Pháp Làm Tốt Công Tác Chủ Nhiệm

Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục.

LỜI GIỚI THIỆU Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Muốn giáo dục cho một đứa trẻ được hoàn thiện quả không đơn giản, người giáo viên phải bao quát tất cả các kĩ năng, kiến thức, nội dung lẫn phương pháp khi đứng trên bục giảng. Để nhận thấy được tầm quan trọng đó, bản thân tôi luôn cần phải trang bị cho mình một số biện pháp, phương pháp và linh hoạt xử lí mọi tình huống diễn ra trong quá trình giảng dạy. Tôi đã 13 năm làm công tác chủ nhiệm và đặc biệt là 11 năm được chủ nhiệm lớp 4, tôi đúc rút cho mình một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4. Năm nay tôi mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm, với đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” giới thiệu cùng với bạn bè đồng nghiệp gần, xa. Góp một phần nhỏ vào công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học nói chung và chủ nhiệm lớp 4 nói riêng, nhằm đưa ra một số biện pháp tốt nhất để giáo dục học sinh nói chung và mỗi học sinh mình chủ nhiệm nói riêng một cách hoàn thiện nhất. Rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý chân thành từ quý cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn!A – PHẦN MỞ ĐẦU I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Đất nước ta đang trong thời kì phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới, nhất là phát triển kinh tế trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thì ngành giáo dục là ngành đầu tiên khai trương mở lối. Vì vậy, ngành giáo dục chúng ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm gần đây, bản thân tôi nhận thấy rằng đạo đức, lối sống bị suy thoái ngày một gia tăng, lứa tuổi vị thành niên vi phạm Pháp luật rất nhiều. Trong nhà trường phổ thông nói chung và Tiểu học nói riêng, các em còn rất nhỏ, vốn hiểu biết chưa nhiều, các em như “Tờ giấy trắng” viết như thế nào thì nó in đậm, in sâu khó xóa mờ. Các em rất thơ ngây, hiếu động, dễ bị dụ dỗ, nghe theo. Mặt khác trong học tập có một số em còn ham chơi, ít chú ý, học hay quên, ý thức tự giác chưa cao. Xét thấy nhiệm vụ của mình cũng rất lớn trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho mỗi con người trong xã hội, bắt đầu là những em học sinh mà mình đang chủ nhiệm. Hằng ngày, hằng giờ đau đáu, trăn trở, làm thế nào để có kết quả tốt nhất cho việc hoàn thiện một đứa trẻ, trở thành một người công dân tốt của gia đình và xã hội? Xuất phát từ những lý do trên, mà bao nhiêu năm làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn tìm cho mình những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng vào công tác chủ nhiệm của mình sao cho đạt được kết quả như mong muốn, sao cho từng “Mầm non của đất nước” phát triển tươi tốt, đơm hoa kết trái cho đời. Đó cũng là lý do tôi chọn viết Sáng kiến kinh nghiệm, đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. 1- Mục tiêu: – Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. – Đề xuất “Một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm” để giúp các em học sinh trở thành một người có năng lực, có phẩm chất đạo đức, lối sống chuẩn mực, nhân cách tốt trong xã hội.   2- Nhiệm vụ: Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên tôi chỉ hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau: – Tìm hiểu nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. – Từ thực trạng và kết quả nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc làm công tác chủ nhiệm lớp 4 của giáo viên trong quá trình dạy- học trên lớp. – Đề xuất một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng về mọi mặt của lớp mình chủ nhiệm. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU.   1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu đề tài này là một số biện pháp, mức độ hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống của từng đối tượng học sinh trong tập thể lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt. 2. Khách thể nghiên cứu: Đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu 22 em học sinh lớp 4B, trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar – Tỉnh DăkLăk. IV. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU. – Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. Cụ thể là 22 em học sinh lớp 4B tôi chủ nhiệm. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống là do nhận thức, ý thức tự giác, giao tiếp còn kém và những đề xuất nhằm hoàn thiện năng lực, phẩm chất, nhân cách đạo đức chuẩn mực của từng học sinh lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar. –  Rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài. – Thời gian thực hiện nghiên cứu và áp dụng từ đầu tháng 8/2015 đến cuối tháng 3/2016. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. – Phương pháp quan sát – Phương pháp điều tra, trò chuyện. – Phương pháp nêu gương. – Phương pháp tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh TH. – Phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu. – Phương pháp đọc sách tham khảo và tài liệu. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:   1. Lý luận khoa học: Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đã không ngừng phát triển và là động lực để phát triển kinh tế xã hội; giáo dục đã phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh qui mô, thích ứng nhanh với những yêu cầu biến đổi nguồn nhân lực. Ngược lại, sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, của khoa học kỹ thuật cũng đã tác động trở lại để phát triển giáo dục. Hiện nay các nước phát triển, cũng như các nước đang phát triển đều quan tâm cải cách giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập hóa, quốc tế hóa. Đây là thời cơ và cũng là thách thức đối với quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Một mặt nó tạo ra cơ hội cho giáo dục phát triển do nhu cầu về nguồn nhân lực có trí tuệ ngày càng tăng. Mặt khác, kinh tế đòi hỏi giáo dục đáp ứng nhu cầu trước mắt và đón đầu, định hướng đúng cho tương lai. Một ngôi nhà vững chắc thì cần có một nền móng vững chắc. Bởi thế ngay từ trường Tiểu học, học sinh phải được học đầy đủ các môn học để phát triển toàn diện. Ngoài việc lĩnh hội các kiến thức môn học, các em còn cần được trang bị cho mình nhiều kĩ năng khác như: giao tiếp, kĩ năng sống, xử lý tình huống, biết phân biệt đúng sai,…thì mới tạo tiền đề cho các em bước tiếp lên các cấp học cao hơn, tiến đến hoàn thiện nhân cách cho các em sau này. 2. Lý luận thực tiễn: Là người giáo viên dạy Tiểu học, hầu như chịu hoàn toàn trách nhiệm về lớp mình phụ trách, trực tiếp giảng dạy các môn học, đồng thời tổ chức, hướng dẫn tất cả các hoạt động giáo dục. Trong những giờ tới trường giáo viên chủ nhiệm lúc nào cũng ở cạnh các em, là người “mẹ thứ hai” của các em, luôn gần gũi, dõi theo mọi hành động, hành vi của từng em trong lớp. Học sinh tiểu học còn chưa biết hành động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động, làm sao cho từng em học sinh có được công việc thích hợp và bộc lộ được khả năng của mình. Mở rộng và khơi sâu trí thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục ý thức tự giác và ứng xử, thỏa mãn nhu cầu, kích thích sự hứng thú, phát triển năng lực của học sinh. Trong mắt các em, giáo viên chủ nhiệm là “Thần tượng”, là người mà các em tin tưởng tuyệt đối nhất, cô giáo nói gì các em cũng nghe, vâng lời cô giáo là cái duy nhất có ở tất cả các em học sinh. Chính vì thế mà người giáo viên chủ nhiệm phải chú trọng từng lời nói, hành động, việc làm chuẩn mực nhất trước học sinh, là tấm gương sáng để các em noi theo. Qua công tác chủ nhiệm, người giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho các em, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản thân, để các em trưởng thành, lớn lên, vững vàng bước vào đời. II. THỰC TRẠNG:  1.Thuận lợi, khó khăn: 1.1. Thuận lợi: – Năm học 2015-2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4B. Với tổng số: 22; nữ: 14; Dân tộc: 1; Khuyết tật:1. Số lượng học sinh không đông, dân tộc chiếm ít, việc quản lý, giáo dục các em tương đối thuận lợi. – Lớp được học 2 buổi/ngày, Toán được ôn tập 3 tiết/tuần, tiếng Việt 2 tiết/tuần. Nên có thời gian ổn định để kèm cặp các em yếu. – Các em phần đông được gia đình quan tâm, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa,…. – Mặt khác phòng học khang trang, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ. – Hầu hết các em đều cố gắng học tập, biết vâng lời, lễ phép với cô giáo. 1.2. Khó khăn: – Địa bàn thuần nông, thời gian đi làm là nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ bảo cho con cái. – Lớp có 3 em thuộc hộ cận nghèo và một số em gia đình kinh tế còn khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống của các em, sự chăm lo về mọi mặt không được  đầy đủ, chu đáo. Có 6 em nhà ở xa trường, việc đi lại tốn nhiều thời gian, đi suốt đoạn đường xa, mệt mỏi nên ảnh hưởng tới sức khỏe khi các em đến lớp. – Mặt khác trí tuệ các em không đồng đều, khả năng nhận thức (tiếp thu) cũng không đồng đều. Có một số em không chú ý, không có thái độ tích cực học, mà đến lớp như một thói quen, với thái độ lơ đễnh. Khi cô giáo giảng xong, hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những em đó thường hay tự ti, mặc cảm, sợ sệt, nhút nhát, chưa biết thể hiện mình. – Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ ràng, hay có kiểu nói rất nhỏ, nói lắp bắp, không thể nghe được. * Điều tra thực trạng Tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về quá trình tiếp thu bài, học bài và những hành vi ứng xử, giao tiếp, kĩ năng sống, sự hiểu biết,…trong lớp học của 22 em học sinh lớp 4B, trường Tiểu học Lý Thường Kiệt. Vào đầu năm, qua tìm hiểu, trao đổi, kiểm tra về tình hình chung của tất cả các em học sinh trong lớp, tôi nhận thấy: Lớp có một số em chưa tự giác học tập, trong giờ học còn lơ là, ít chú ý, tiếp thu chậm, tự ti, mặc cảm, trầm tính, không năng động,…; Một số em còn mang tính là quậy phá, hay chọc bạn, đánh bạn; Một số em chưa thực sự ngoan, nói năng còn trống không, chưa lễ phép; Rất nhiều em viết chữ còn sai lỗi nhiều, chưa đẹp; Trang phục chưa mua sắm đầy đủ;… Đó là thực trạng mà bản thân tôi luôn lo lắng, băn khoăn khi làm công tác chủ nhiệm lớp 4B trong năm học này. Do thực hiện áp dụng đề tài, nên sau hai tuần đầu năm học, qua trao đổi, tìm hiểu, tôi hướng tới một vài số liệu có nội dung chủ yếu sau:

Tổng số HS Nội dung tìm hiểu Số lượng Tỉ lệ

22 (1 KT) 1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ. 2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp. 3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm. 4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép. 5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn. 6) Học sinh cá biệt. 7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ. 8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè. 9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế. 10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,… 10 7 8 12 5 2 4 6 9 7 47,6 33,3 38,0 57,1 23,8 9,5 19,0 28,5 42,9 33,3

Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh thuộc các nội dung trên chiếm nhiều so với tổng số học sinh của lớp. 2. Thành công- hạn chế 2.1. Thành công: Khi có ý tưởng và thực hiện đề tài này, tôi thấy đối với đối tượng học sinh của lớp 4B sẽ có hiệu quả cao hơn, dựa vào những thuận lợi trên và sự quan tâm của giáo viên cũng như một số biện pháp, giải pháp và xử lý linh hoạt phù hợp với đối tượng của học sinh, nắm bắt được tâm sinh lý của học sinh. Chắc chắn cuối năm, lớp sẽ đạt kết quả cao trong học tập, các em sẽ ngoan, đi vào nề nếp tốt, bước lên các lớp tiếp theo,  sẽ đem lại thành công như mong muốn. 2.2. Hạn chế: Trong quá trình dạy học trên lớp, hằng ngày cô trực tiếp tổ chức và hướng dẫn các em về mọi mặt tôi thấy một số em khả năng giao tiếp kém, tiếp thu bài còn chậm, có thái độ thờ ơ. Các em chưa tự tin, mạnh dạn trong tŕnh bày ư kiến của ḿnh. Ngược lại trốn tránh, mặc cảm, nhút nhát, sợ sệt. Cha mẹ các em hay đi làm trên nương rẫy, nên có việc gì muốn gặp để trao đổi, liên lạc sẽ không được kịp thời. Một số hạn chế trên, tôi cảm thấy việc áp dụng đề tài cũng gặp ít, nhiều hạn chế. 3. Mặt mạnh, mặt yếu của vấn đề. 3.1. Mặt mạnh:  Tôi là một giáo viên đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, chủ nhiệm lớp 4 được 11 năm, do đó tôi cũng có nhiều cơ hội trau dồi, học hỏi, để đúc rút kinh nghiệm, nhiều biện pháp tốt trong công tác chủ nhiệm của mình. Ngay từ đầu năm tôi đã nhận thấy đa số các em học sinh của lớp  ngoan, vâng lời luôn có sự phấn đấu. Khi các em phạm lỗi sai là biết nhận lỗi và sửa lỗi ngay. Các em biết lắng nghe, chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong lớp và trong trường. Các em ham học, muốn tiến bộ, muốn cô chỉ bảo, làm mẫu. Rất thích thú khi làm được điều đúng, được cô giáo khen. Bản thân luôn được các em yêu quý, kính trọng, vâng lời. Cô phân công, giao việc các em đều nghe và chấp hành tốt. Mặt khác được cha mẹ các em tin tưởng, sẵn sàng hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ với cô để giáo dục con em họ, tạo điều kiện tốt nhất để giúp đỡ cô trong công tác chủ nhiệm lớp. 3.2. Mặt yếu:  – Một số em ham chơi, không chăm học, không tích cực, không biết, không hiểu là các em càng không chịu học, không để ý gì đến những  lời giảng giải phân tích của cô. – Một số em tâm trạng không được tốt, vốn giao tiếp không có, năng lực hạn chế, sức khỏe không đảm bảo, thể trạng gầy, nhỏ so với các bạn đồng trang lứa. – Gia đình các em đa số đi làm về, là nghỉ ngơi một lúc rồi đi ngủ, không còn thời gian bảo ban các em xem ti vi, đọc báo, đọc sách,…để mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn.  4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Từ thực trạng mà học sinh còn hạn chế về sự tiếp thu bài, ít học bài, ít chú ý trong giờ học. Kĩ năng sống, hành vi ứng xử, giao tiếp còn hạn chế,… là do các nguyên nhân, các yếu tố tác động sau: 4.1. Về tâm sinh lí: Với lứa tuổi lớp 4, các em đang chuẩn bị bước sang tuổi dậy thì, nên có sự thay đổi về thể chất lẫn tâm sinh lý,…Các em mới vừa bước lên lớp 4, có những thay đổi về môn học, kiến thức, các hoạt động khác cũng được nâng cao, dẫn đến các em cũng có phần lo sợ, hoang mang. Mặt khác kiến thức lớp dưới các em học xong rồi quên, không nắm chắc để áp dụng, có nhiều em không còn nhớ một nội dung gì ở dưới lớp 1,2,3 mà mình đã học. Một số em hiếu động, hay bắt nạt bạn, chọc bạn, ít chịu ngồi im. Ở lứa tuổi các em đa số là ham chơi, ít chú ý, thói quen là để cô cùng các bạn giải quyết vấn đề xong, rồi có sẵn để ghi vào. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Việc thực hiện đi vào nề nếp các em vẫn chưa coi trọng, cứ làm những gì mình thích, không quan tâm gì đến nội quy của trường, lớp.   4.2. Về hoàn cảnh gia đình của học sinh: Hầu hết học sinh của lớp tôi chủ nhiệm sống trong môi trường là vùng nông thôn, nên suy nghĩ và nhận thức của các em còn hạn hẹp. Điều kiện học ở nhà của các em còn thiếu thốn: Thiếu sự hướng dẫn bảo ban của cha mẹ, vì phần lớn cha mẹ các em trình độ còn thấp, chỉ biết việc trên nương rẫy, ít có thời gian giáo dục, dạy dỗ con cái hay đôn đốc việc học hành của con; Thiếu thốn về vật chất, góc học tập chưa phù hợp hoặc có em không có. Có em, mẹ bị mất, sống với bố, nên bị thiệt thòi rất nhiều về tình cảm, tinh thần và sự chăm sóc. Cha mẹ các em chưa chú trọng đến việc rèn cho con mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép, cho lịch sự. Con cái giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần thành thói quen.    4.3. Về phía giáo viên:  Về phía giáo viên thì chưa nắm bắt được tâm lý của học sinh, khi hỏi các em điều gì là yêu cầu các em trả lời được, mà các em không có khả năng hình dung, suy nghĩ như mình mong muốn, cứ đặt ra những câu hỏi khuôn mẫu, áp đặt học sinh yêu cầu học sinh phải trả lời theo ý của mình. Phương pháp truyền thụ chưa phù hợp. Đôi khi các em trả lời chưa đúng thì bỏ qua, gọi em khác trả lời là xong, chưa  thực sự quan tâm đến việc tại sao các em trả lời chưa đúng ? Chưa đặt những câu hỏi để phát huy tính tự giác tích cực của học sinh. Đôi khi giáo viên chưa thực sự gần gũi, thân mật với các em, nên các em phần thì sợ, phần thì chây lì. Kiến thức lớp 4 thì hơi nặng và nhiều, nên việc truyền thụ cho các em chiếm hết thời gian, dẫn đến không còn thời gian dành cho các em. Vì vậy mà đôi khi việc xử lý một số tình huống chưa kịp thời, học sinh phạm lỗi thì cho qua, chưa có sự bảo ban tỉ mỉ. III.  CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP:  1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp. Bản thân tôi cảm thấy công tác chủ nhiệm vô cùng nan giải. Nó có vai trò quan trọng trong việc giáo dục và đào tạo một em học sinh ở lứa tuổi tiểu học, là nền móng để cho các em lớn lên và trưởng thành, là một người có năng lực và phẩm chất đạo đức chuẩn mực. Vì vậy mục đích các biện pháp, giải pháp của đề tài này là muốn nâng cao chất lượng học tập, rèn ý thức tự giác, tự quản, rèn các kĩ năng sống, giáo dục nhân cách, phẩm chất đạo đức cho các em học sinh tiểu học nói chung và các em học sinh của lớp mình đang chủ nhiệm nói riêng. Sao cho cuối năm đạt kết quả cao trong mọi lĩnh vực.   2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp. 2.1. Nội dung: Các biện pháp, giải pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm thì rất nhiều và đa dạng, nhưng bản thân tôi xin được đúc kết lại với các nội dung chính, quan trọng nhất, cụ thể như sau: – Triển khai công tác xây dựng nề nếp đầu năm. – Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực” – Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà. – Phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, Đội và các giáo viên bộ môn. 2.2. Cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:  2.2.1. Triển khai công tác xây dựng nề nếp đầu năm: Công tác xây dựng nề nếp lớp học là nhiệm vụ hàng đầu của một giáo viên chủ nhiệm, muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, người giáo viên cần phải đưa tập thể lớp đi vào nề nếp ngay từ đầu năm, thì lớp học đó mới đạt được nhiều thành tích trong suốt năm học. Để làm tốt công tác xây dựng nề nếp của lớp, tôi hướng tới thực hiện những việc làm sau: a) Nắm thông tin học sinh: Việc nắm các thông tin của học sinh đầu năm là rất cần thiết. Có được thông tin học sinh giúp cho giáo viên chủ nhiệm phục vụ cho việc ghi chép hồ sơ giáo viên, nắm được hoàn cảnh gia đình, lực học của năm trước, việc liên lạc với gia đình các em,…Vì thế ngay từ đầu năm, tôi đã làm Phiếu ghi thông tin học sinh, phát cho từng em, hướng dẫn các em ghi đầy đủ, rõ ràng, sau đó thu lại để phục vụ cho công tác chủ nhiệm lớp của mình. Mẫu phiếu như sau:

PHIẾU GHI THÔNG TIN HỌC SINH 1) Họ và tên:…………………………… Dân tộc:………………………………….. 2) Ngày tháng năm sinh:………………………………………………………… 3) Nơi sinh:…………………………. Quê quán:……………………………….. 4) Địa chỉ: Số nhà:….Đội:…Thôn:…Xã:………Huyện:……………………….. (Số điện thoại gia đình:…………………………) 5) Họ và tên bố:………………….Năm sinh:…….Nghề nghiệp:……………….. Họ và tên mẹ:……………… …Năm sinh:…….Nghề nghiệp:………………. 6) Sống với: Bố + mẹ: o  ;Bố: o  ; Mẹ: o  ; Ông, bà: o  ;Người đỡ đầu: o 7) Hoàn cảnh gia đình: (khá giả, đủ ăn, cận nghèo, nghèo):……………………. 8) Kết quả học tập cuối lớp 3: (HT, TH tốt, HT xuất sắc):……………………… 9) Những môn học yêu thích:…………………………………………………… 10) Góc học tập riêng ở nhà: (Có, không, học chung):…………………………. 11) Sở thích (Năng khiếu):……………………………………………………….

 b) Xử lý thông tin: Sau khi thu phiếu điều tra, tôi đã có đầy đủ các thông tin của học sinh, phục vụ cho những việc sau:+ Ghi chép vào hồ sơ: Tôi đã ghi chép đầy đủ thông tin cần thiết vào sổ theo dõi chất lượng, sổ chủ nhiệm, sổ liên lạc với gia đình học sinh,…Cập nhật phần mềm smax 3.0 (Quản lý học sinh). + Xếp chỗ ngồi học sinh: Tôi dựa vào kết quả học lực của các em, phần nào nắm được những em học khá, giỏi và yếu kém, để xếp chỗ ngồi cho hợp lý như: Nam ngồi xen kẽ nữ, em khá giỏi ngồi với em yêu kém, kết hợp phân công đôi bạn cùng tiến,… + Trao đổi, chia sẻ: Tôi chủ động đến gặp một số em, để hỏi thăm thêm về gia đình, hoàn cảnh sống thường ngày của gia đình,…động viên, chia sẻ, giúp đỡ. c) Bầu ban cán sự lớp: Bầu ban cán sự lớp là việc cần làm ngay từ đầu năm, đây là một trong những điều kiện để các em thể hiện mình, có ý thức tự quản tốt, có ý thức đi vào nề nếp. Do đó tôi đã sắp xếp thời gian hợp lý nhất, cho các em tổ chức bầu ban cán sự lớp theo quy định, chọn ra những em có năng lực tốt để đảm nhận nhiệm vụ của lớp giao phó, sau đó phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong ban cán sự. 2.2.2. Xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực”: Thực hiện Chỉ thị số 40/CT-BGĐT của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo về phát động phong trào thi đua và kế hoạch số 307/KH-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về kế hoạch triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”  nhằm nâng cao giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Qua nhiều năm thực hiện bản thân tôi thấy nó đem lại hiệu quả rất cao cho ngành giáo dục nói chung và nhất là trường Tiểu học nói riêng. Mà để xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải xây dựng “Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Dựa vào 5 nội dung được quy định trong kế hoạch của Bộ, tôi đã thực hiện như sau: a)Trang trí lớp học thân thiện: Phòng học là nơi các em học tập, vui chơi. Bởi thế mà ngoài việc có một phòng học khang trang, thoáng mát, đầy đủ tiện nghi, còn cần có phòng học trang trí đẹp, thân thiện, gần gũi với các em, tạo cho các em sự thích thú, say mê, niềm phấn khởi khi ngồi vào lớp học. Cho nên ngay từ đầu năm tôi cùng các em đã trang trí lớp học rất đẹp, với nhiều nội dung, hình ảnh phong phú, đa dạng phục vụ cho việc học tập tốt hơn, mang lại nhiều niềm vui hơn cho các em mỗi ngày đến lớp. b) Xây dựng mối quan hệ Thầy – trò, bạn bè trong và ngoài lớp: * Mối quan hệ giữa thầy-trò: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, quan hệ thầy – trò đã trở thành thân thiện, gần gũi như là những người bạn thực sự, người thầy chỉ là người tổ chức, hướng dẫn cho các em trong quá trình dạy học, thế nên việc xây dựng mối quan hệ thầy trò quả không khó đối với bản thân tôi. Cụ thể là tôi luôn tạo cho các em mối quan hệ mật thiết, gần gũi, nói năng nhỏ nhẹ, dịu dàng, không để các em phải sợ sệt khi đứng trước mặt giáo viên, tôi luôn chủ động chỉ bảo, tôi thường nói: “Các em muốn có ý kiến gì thì cứ mạnh dạn trao đổi với cô, cô sẽ luôn giúp đỡ, hỗ trợ các em trong học tập cũng như trong cuộc sống”. Trong lớp có vấn đề xảy ra giữa các em, tôi luôn từ từ giải quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Khen, thưởng những em có thành tích cũng như phạt, răn đe rõ ràng đối với những phạm lỗi, nhưng trong quá trình răn đe, giáo dục, tôi vẫn động viên, khuyến khích tìm những điểm tốt của các em để nêu gương, sau đó mới đưa ra những lỗi phạm và yêu cầu các em không được vi phạm nữa. Đối với những em học sinh khuyết tật và cá biệt, tôi luôn giáo dục nhẹ nhàng, chỉ bày tỉ mỉ, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, sự nhân ái, bao dung sẵn sàng tha thứ, bỏ qua những lỗi lầm mà các em đã phạm. Chính vì thế mà tôi luôn được các em kính trọng, yêu quý và vâng lời, từ đó các em rất tự tin, phấn khởi, kích thích sự ham học, thích thú khi đến lớp. * Mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp: Tình bạn là tình cảm quý nhất của mỗi con người chúng ta, ở nhà chúng ta có tình cảm của ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng,….đến lớp chúng ta không thể không có tình bạn. Có nhiều bạn tốt thì chúng ta luôn tự hào và là điều kiện giúp chúng ta vươn lên trong cuộc sống, người ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”, bạn bè cần phải giúp đỡ lẫn nhau, vui buồn có nhau, phải biết thương yêu, đoàn kết, chia sẻ, cùng nhau phấn đấu trong học tập, trong cuộc sống, sao cho có kết quả cao nhất. Để xây dựng tốt mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp của học sinh lớp tôi chủ nhiệm, tôi đã giáo dục các em những điều sau: – Trong học tập, các em phải biết giúp đỡ, hợp tác với nhau, bạn học giỏi chỉ bài cho bạn học yếu, bạn học chưa giỏi nên hỏi, trao đổi với bạn biết hơn mình. Các em không được ích kỉ, hẹp hòi. – Trong giao tiếp các em phải nói năng lịch sự, dễ nghe, nói từ tốn, nói lời hay ý đẹp, không được xúc phạm bạn, có điều gì không hài lòng hay bạn phạm lỗi với mình thì nói cho bạn hiểu để bạn sửa sai, hoặc nữa là trình với cô để cùng nhau giải quyết. – Trong cuộc sống các em cần phải biết đoàn kết, chia sẻ giúp đỡ những bạn còn khó khăn hơn mình, chia sẻ nỗi buồn, niềm vui cùng bạn,…thương yêu nhau như anh, chị em cùng một nhà. – Tuyệt đối không được chọc bạn, đánh nhau với bạn, xúc phạm bạn, không nói tục, chửi thề. Không được nói xấu về bạn, không chia rẽ, chia bè phái hoặc không chơi với bạn này, bạn kia,…        c) Tổ chức, tham gia các hoạt động tập thể: Tham gia các hoạt động tập thể giúp cho các em rất nhiều về kĩ năng sống, các em có cơ hội thể hiện mình trước đám đông, thể hiện những tài năng, năng lực và kĩ năng giao tiếp của mình. Qua đó giáo dục các em về sự hiểu biết nhiều lĩnh vực của cuộc sống, phẩm chất, nhân cách, đạo đức,…Chính vì thế trong công tác chủ nhiệm, tôi luôn chú trọng việc tham gia, tổ chức cho các em hoạt động tập thể theo quy định, lịch của trường, lớp. Các giờ hoạt động tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động thể dục thể thao, vui chơi, múa hát,…tôi đều tạo điều kiện cho các em được luyện tập, tham gia đầy đủ và có hiệu quả nhất. 2.2.3. Một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà. Làm công tác chủ nhiệm, ai cũng muốn học sinh của mình học giỏi, có nhiều thành tích trong học tập và cuối năm đạt được kết quả như mong muốn. Để được như thế, người giáo viên cần phải có trình độ chuyên môn, phải có phương pháp dạy học phù hợp, linh hoạt giúp các em lĩnh hội kiến thức một cách có hiệu quả nhất. Cho nên ngoài việc hướng dẫn các em học ở lớp, thì cần phải học tốt khi ở nhà. Do đó tôi đã đưa ra một số phương pháp giúp các em học tốt ở lớp và ở nhà như sau: Thực hiện Thông tư số 30/2014/TT-BGD-ĐT ngày 28/08/2014 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc đánh giá học sinh tiểu học. Thực hiện Công văn hướng hẫn thực hiện Thông tư 30 số 6169/BGDĐT- GDTH ngày 27/10/2014. Bản thân tôi luôn thực hiện đúng và kịp thời như trong Thông tư chỉ đạo, không tạo áp lực cho các em khi học, mà ngược lại kích thích, động viên các em rất nhiều. Ngoài việc tổ chức kiểm tra, đánh giá các em bằng lời nhận xét, tôi còn tổ chức cho các em nhận xét lẫn nhau để các em rút ra được bài học kinh nghiệm khi học tốt cũng như học chưa tốt, các em kịp thời sửa chữa, chấn chỉnh ngay, còn thi đua, phấn đấu cao trong học tập. b) Học ở nhà: Ngoài việc học tốt ở lớp, nếu các em về nhà không ôn tập, không học lại thì dẫn tới dễ quên, mạch kiến thức sẽ bị hỏng, không thực hành được tốt. Vậy việc học bài và làm bài tập thêm ở nhà cũng rất cần thiết, phần nào giúp các em nắm vững kiến thức ở lớp, học thuộc bài khi cô kiểm tra bài cũ,…Thế nên tôi đã có một số biện pháp giúp các em học tốt khi ở nhà, đó là: + Lập thời gian biểu hợp lý nhất chung cho tất cả các em. + Thường xuyên kiểm tra bài cũ, việc làm bài tập thêm ở nhà. + Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, để trao đổi tình hình học tập của các em, như là gọi điện, liên lạc bằng sổ, trực tiếp đến nhà,…Đặc biệt quan tâm trao đổi thường xuyên với phụ huynh học sinh cá biệt, những em còn yếu kém, tạo mọi điều kiện giúp đỡ kịp thời. 2.2.4. Phối kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu, Đội và các giáo viên bộ môn. Công tác phối kết hợp, là một trong những biện pháp hữu hiệu, nhằm răn đe, quán triệt có hiệu quả cao. Đôi khi có những công việc, nội dung hay tình huống mà một mình giáo viên không thể giải quyết được thì cần phải nhờ sự hỗ trợ của Ban giám hiệu nhà trường, hoặc Đội và các giáo viên bộ môn nếu có thể. Vì vậy, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn nhờ sự tư vấn, chỉ đạo từ phía Ban giám hiệu nhà trường cho phép tôi mới thực hiện, gặp trường hợp nào cần đến sự hỗ trợ xử lư của Ban giám hiệu là tôi lập tức báo cáo, cùng với Ban giám hiệu để có biện pháp tốt và hay nhất. Về phía Đội, tôi luôn kết hợp giáo dục các em cùng với anh Tổng phụ trách Đội, vì chức năng của Đội là tổ chức lễ chào cờ, các buổi sinh hoạt tập thể, các cuộc thi, các phong trào,…Cho nên để phát huy khả năng, năng lực của các em, tôi luôn cộng tác với anh Tổng phụ trách tạo cơ hội, điều kiện cho các em thể hiện. Bên cạnh đó, nếu có những những em chưa ngoan, phạm lỗi thì tôi cũng kết hợp với Đội để tạo sức răn đe, giáo dục có hiệu quả. Ngoài kết hợp với Ban giám hiệu, Đội tôi còn phối kết hợp với các thầy, cô giáo bộ môn, như là hỏi thăm về tình hình học tập, các hoạt động khác mà các thầy cô giáo bộ môn phụ trách, đồng thời kết hợp, đưa ra những biện pháp phù hợp giáo dục các em trong tất cả các giờ học trên lớp dù không có giáo giên chủ nhiệm, các em cũng vẫn ngoan, vâng lời, học tập và tham gia tốt mọi hoạt động. 3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp. – Năm học này tôi được tiếp tục giảng dạy và kiêm công tác chủ nhiệm lớp 4B. Bản thân đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, nên đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm. – Do có sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban giám hiệu nhà trường, cùng với các bạn bè đồng nghiệp. – Sự hợp tác của cha mẹ học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. – Học sinh đa số ham học, biết vâng lời, yêu quý, tin tưởng cô giáo chủ nhiệm của mình. 4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.          – Việc sử dụng các biện pháp trên được kết hợp vận dụng phù hợp, linh hoạt sáng tạo cộng với sự khéo léo, thông minh của giáo viên chủ nhiệm.. –  Cách xử lý thuyết phục, nói năng dịu dàng, nhỏ nhẹ, cùng với sự nêu gương, làm mẫu. – Các phương pháp, biện pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt, không nhất thiết phải theo thứ tự trước, sau mà sử dụng bất kỳ lúc nào, trường hợp nào cảm thấy phù hợp, cùng một lúc có thể sử dụng cả hai biện pháp, như: Việc học tốt ở lớp chưa đủ mà cần phải học tốt ở nhà thì mới có kết quả tốt. Học tốt không chưa đủ mà cần phải có đạo đức tốt, nhân cách tốt. Cuối cùng nhằm giúp các em hưởng ứng mạnh mẽ, hứng thú, phấn khởi và cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. IV- KẾT QUẢ THU ĐƯỢC QUA KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA HỌC  CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: Sau khi áp dụng đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” từ đầu năm cho đến cuối tháng 3/2015, tôi đã kiểm tra, theo dõi, nhận định thì thấy số liệu về những nội dung tìm hiểu đầu năm đã khác như sau:

Tổng số HS Nội dung tìm hiểu Số lượng Tỉ lệ

21 1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ. 2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp. 3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm. 4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép. 5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn. 6) Học sinh cá biệt. 7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ. 8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè. 9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế. 10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng,… 2 2 3 0 0 0 0 2 3 1 9,5 9,5 14,3 0 0 0 0 9,5 14,3 4,7

Ngoài số liệu khảo thí trên, lớp còn có những thành tích nổi bật sau:

– Lớp có nề nếp tốt: Các em ngoan, hiền, biết vâng lời làm theo và làm đúng với lời chỉ bảo của cô giáo, trong lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài. Là lớp rất đoàn kết, các em luôn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, trong lao động. Có tinh thần tự giác, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, 5 nhiệm vụ của người học sinh,… – Đa số các em tích cực trong mọi hoạt động, nhất là trong học tập. Đặc biệt ban cán sự của lớp rất có năng lực, các em mẫu mực, học giỏi, viết chữ đẹp, nhanh nhẹn, luôn làm tốt mọi công việc được giao. – Về rèn luyện giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp: Đa số các em có ý thức giữ gìn sách vở sạch, đẹp luôn bao bọc, nhãn tên, viết bài đầy đủ, không quăn góc, không bôi bẩn, không xé rách…,  chữ viết luôn luôn trau dồi, rèn luyện dưới sự uốn nắn, sửa sai của cô giáo. Đặc biệt có một số em viết rất đẹp như: em Bích Ngọc, Vân, Triệu, Kiều, Trinh, Trang, Thuận,… – Về công tác Đội: Với ban cán sự năng động, nhiệt tình, với tinh thần tự giác trách nhiệm ý thức cao cộng với sự rèn luyện tốt. Các em đã luôn thực hiện và tham gia đầy đủ mọi phong trào của Đội đề ra: Kế hoạch nhỏ, Vòng tay bè bạn, các phong trào từ thiện, Viết thư UPU, tham gia Câu lạc bộ kể chuyện, yêu thơ,…đạt kết quả cao và tham gia 100%. – Về trang trí lớp: Đạt giải A Trong một thời gian thực tế áp dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên từ tháng 22/08/ 2015 đến 31/03/2016, kết quả thu được khả quan hơn rất nhiều. Kết quả  hai môn Toán, Tiếng Việt đạt chất lượng cao hơn so với đầu năm, số lượng các em thuộc các nội dung trên giảm đáng kể, điều này cho tôi thấy được phần nào an tâm hơn khi làm công tác chủ nhiệm lớp. Với kết quả này, tôi sẽ tiếp tục duy trì, áp dụng và luôn giúp đỡ các em cho đến cuối năm học, tôi tin rằng kết quả cuối năm sẽ đạt được như mong muốn.      * Bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc áp dụng đề tài: Qua quá trình thực hiện đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4”, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau: – Giáo viên chủ nhiệm cần thực hiện đầy đủ các công việc đầu năm của lớp mình chủ nhiệm. – Người giáo viên chủ nhiệm cần phải học hỏi, trau dồi kinh nghiệm, vốn sống, năng lực chủ nhiệm luôn được năng cao. – Theo dõi, kiểm tra, quan tâm đến tất cả các hoạt động của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Tránh bỏ qua, mặc kệ, không phân giải rõ ràng khi các em trao đổi hay thưa kiện việc gì đó. Mà ngược lại phải biết xử lý tốt trong mọi tình huống. – Quan tâm nhiều và đặc biệt đến các HS yếu kém, cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt. – Thường xuyên theo dõi nề nếp 15 phút đầu giờ, giao nhiệm vụ cho tổ trưởng kiểm tra, chữa bài tập cùng với lớp trưởng và lớp phó học tập. Ban cán sự lớp tự tổ chức giờ Sinh hoạt cuối tuần, các tổ trưởng, lớp trưởng lên nhận xét, đánh giá từng bạn trong tổ, để các em noi gương, học tập lẫn nhau và đặc biệt là biết sửa chữa lỗi của mình trước tập thể. – Giáo dục đạo đức, nề nếp học sinh thông qua các biện pháp thuyết phục, nêu gương tốt, rèn luyện, khen thưởng và kỉ luật. Việc áp dụng vào đề tài này phải cần có thời gian, không phải chỉ trong thời gian ngắn mà làm được. Cũng có những khó khăn nhất định của nó nhưng tôi đã kiên trì và với lòng yêu nghề, mến trẻ, thật sự tâm huyết với đề tài nên tôi đã có được những kết quả như mong muốn. Và tôi tin chắc rằng đồng nghiệp của mình còn có kinh nghiệm hơn, đưa kết quả của đề tài này vươn cao hơn nữa. C. PHẦN KẾT LUẬN  I. Kết luận: Mỗi giáo viên, ai cũng muốn học sinh của mình chăm ngoan, học giỏi, phát triển toàn diện, để sau này trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi học sinh Tiểu học như những cây non, chúng ta cần uốn nắn, chăm chút cẩn thận, nhẹ nhàng chỉ bảo, nêu gương nhiều hơn là khiển trách để giúp học sinh tự tin vào bản thân mình và phát triển. Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm lớp 4 tôi luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm hơn nữa, để sao cho lớp mình chủ nhiệm luôn đạt được kết quả và thành tích cao trong mọi lĩnh vực. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm. II. Kiến nghị: – Trong thư viện cần bổ sung thêm sách, tài liệu về công tác chủ nhiệm, để giáo viên tham khảo, học tập. Rất mong quý cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt đề tài của mình. Xin trân trọng cảm ơn!                                                                                                                                                                                                                        Ea M’nang , ngày 4 tháng 4 năm 2016 Người viết

10 Biện Pháp Đảm Bảo Giáo Viên Làm Tốt Công Tác Chủ Nhiệm

Kinh nghiệm làm công tác chủ nhiệm lớp

Giáo viên chủ nhiệm là một trong những giáo viên đang giảng dạy ở lớp có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện đứng ra làm chủ nhiệm lớp trong một năm học hoặc trong tất cả các năm tiếp theo của cấp học. Giáo viên chủ nhiệm lớp thực hiện nhiệm vụ quản lí lớp học và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, người tập hợp, dìu dắt giáo dục học sinh phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt và xây dựng một tập thể học sinh vững mạnh. Giáo viên chủ nhiệm lớp có vai trò sau đây:

1. Thay mặt hiệu trưởng quản lí một lớp học

Giáo viên chủ nhiệm lớp do hiệu trưởng phân công và thay mặt hiệu trưởng để quản lí và tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh ở một lớp học.

Vai trò quản lí của giáo viên chủ nhiệm lớp thể hiện trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch giáo dục, đôn đốc, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập và tu dưỡng của học sinh trong lớp.

Giáo viên chủ nhiệm phải trả lời các câu hỏi về chất lượng học tập và hạnh kiểm của học sinh trong lớp trước hiệu trưởng, trước Hội đồng sư phạm của nhà trường và trước phụ huynh học sinh của lớp khi tổng kết năm học.

2. Người xây dựng tập thể học sinh thành một khối đoàn kết

Giáo viên chủ nhiệm lớp là linh hồn của lớp, bằng các biện pháp tổ chức, giáo dục, bằng sự gương mẫu và quan hệ tình cảm, giáo viên chủ nhiệm xây dựng khối đoàn kết trong tập thể, dìu dắt các em nhỏ như con em mình trưởng thành theo từng năm tháng.

Học sinh kính yêu giáo viên chủ nhiệm như cha mẹ mình, đoàn kết thân ái với bạn bè như anh em ruột thịt, lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của giáo viên chủ nhiệm càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt.

Rất nhiều giáo viên cùng giảng dạy trong một lớp, nhưng giáo viên chủ nhiệm bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc đối với từng học sinh trong suốt cuộc đời họ.

3. Người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp

Vai trò tổ chức của giáo viên chủ nhiệm thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân, các tổ, nhóm, đồng thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động theo kế hoạch giáo dục được xây dựng hàng năm.

Các hoạt động của lớp được tổ chức đa dạng và toàn diện, giáo viên chủ nhiệm lớp quán xuyến tất cả các hoạt động một cách cụ thể, chặt chẽ.

Các phong trào thi đua học tập đi vào thực chất, các cuộc sinh hoạt các đoàn thể có nội dung hấp dẫn thanh, thiếu niên, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao được tiến hành thường xuyên… Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào trật tự, kỉ luật, vào tinh thần đoàn kết và truyền thống của tập thể lớp cũng như các hoạt động đa dạng của lớp.

4. Cố vấn đắc lực cho các đoàn thể của học sinh trong lớp

Giáo viên chủ nhiệm lớp dù có là đoàn viên, đảng viên hay không cũng cần phải nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể.

Với tinh thần trách nhiệm, với kinh nghiệm công tác của mình làm tham mưu cho chi Đoàn thanh niên của lớp lập kế hoạch công tác, bầu ra ban lãnh đạo chi đoàn, tổ chức các nội dung hoạt động và phối hợp với ban cán sự lớp để xây dựng tập thể, đem lại hiệu quả giáo dục tốt nhất.

5. Giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục

Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, hoạt động có mục tiêu, nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở khoa học, do vậy giáo viên chủ nhiệm phải là người chủ đạo trong điều phối các hoạt động giáo dục cùng với các lực lượng giáo dục đó một cách có hiệu quả nhất.

Năng lực, uy tín chuyên môn, kinh nghiệm công tác của giáo viên chủ nhiệm lớp là điều kiện quan trọng để tập hợp lực lượng, phối hợp thành công các hoạt động giáo dục cho học sinh trong lớp.

II. 10 biện pháp giúp giáo viên làm tốt công tác chủ nhiệm,

1. Tìm hiểu, nắm bắt đối tượng học sinh

Ngay sau khi nhận lớp chủ nhiệm, giáo viên cần tiến hành tìm hiểu, nắm bắt thông tin về đối tượng học sinh lớp chủ nhiệm qua các kênh thông tin khác nhau:

Điều tra qua học bạ năm học trước của học sinh, qua giáo viên chủ nhiệm cũ; lập phiếu điều tra các thông tin cá nhân; tiến hành phân loại học sinh…

Sự phân loại và các thông tin trên là căn cứ để lựa chọn học sinh có năng lực, nhiệt tình vào Ban cán sự lớp, BCH chi đoàn; đồng thời cũng là cơ sở để đưa ra những biện pháp phù hợp trong việc giáo dục học sinh lớp chủ nhiệm.

2. Hoàn thiện tổ chức lớp

Cơ sở lựa chọn đội ngũ cán sự có thể căn cứ vào hồ sơ học bạ của học sinh, căn cứ vào những thông tin cá nhân của học sinh mà giáo viên chủ nhiệm đã thu thập được; căn cứ sự tín nhiệm của tập thể lớp; sự nhiệt tình, năng nổ, ý thức tổ chức kỷ luật, tính gương mẫu và các biểu hiện ban đầu của học sinh trong tập thể lớp.

Giáo viên chủ nhiệm cần phân công nhiệm vụ cụ thể cho ban cán sự lớp. Giáo viên có thể phân thêm tổ phó, bàn trưởng (có sự thay đổi luân phiên theo từng tháng để phát huy tốt vai trò tự quản của học sinh.

Xây dựng dựng đội ngũ tự quản là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với giáo viên chủ nhiệm.

Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng học sinh ý thức trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê bình, phương pháp quản lý lớp.

Mỗi tháng họp một lần để tổng kết rút kinh nghiệm, giao kế hoạch nhiệm vụ tháng tới, mua sổ theo dõi. Mỗi tuần giao ban một lần vào 15 phút sinh hoạt đầu giờ thứ 6 để thứ 7 có số liệu sinh hoạt và khen, chê kịp thời.

Trong xây dựng đội ngũ cán bộ lớp, giáo viên chủ nhiệm cần chú ý chọn đúng nguồn, tránh việc thay cán bộ lớp, không phó mặc việc lớp cho đội ngũ cán bộ lớp.

3. Lập sơ đồ tổ chức lớp học

Khi sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh trong lớp, giáo viên không nên quá áp đặt và cũng không đưa ra tiêu trí xếp nam, nữ ngồi cạnh nhau. Có thể dựa trên các cơ sở: Tình trạng sức khỏe của học sinh; học lực và căn cứ vào nhiệm vụ của ban cán sự lớp.

Lưu ý: Học sinh cần ngồi đúng theo sơ đồ lớp học dưới sự giám sát của giáo viên bộ môn trong các tiết học, của bàn trưởng, tổ trưởng…

Giáo viên cần có sự điều chỉnh chồ ngồi của học sinh kịp thời nếu thấy sự bất hợp lí theo phản ánh của chính bản thân học sinh, cán sự lớp, giáo viên bộ môn,…. ví dụ mất trật tự, không chú ý, nhận thức chậm.

4. Xây dựng tiêu chí thi đua cụ thể

Căn cứ vào đặc điểm tình hình lớp, mỗi năm học, giáo viên nên lập tiêu trí thi đua, mục tiêu cụ thể, các giải pháp thực hiện rồi công bố trước lớp được tập thể học sinh nhất trí tại cuộc họp Chi đoàn, thông qua và xin ý kiến phụ huynh tại cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau đó thống nhất, đưa ra cho tập thể lớp thực hiện, lấy đó làm cơ sở để xếp loại thi đua.

Có sự điều chỉnh và thay đổi, bổ sung kịp thời tùy theo tình hình thực hiện nội quy, nề nếp và ý thức rèn luyện của học sinh.

Đề ra định mức khen thưởng và kỉ luật kịp thời thông qua cuộc họp phụ huynh đầu năm, giữa năm,…

5. Giáo dục đạo đức học sinh qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm

Giờ sinh hoạt có thể theo tiến trình: Nhận xét, đánh giá (từ 15 đến 20 phút); sinh hoạt tập thể (từ 25 đến 30 phút) với các hoạt động vui học, rèn kỹ năng sống để học sinh có cơ hội được thể hiện mình. Cuối một học kì và cuối mỗi năm học, giáo viên có thể cho học sinh tự bộc bạch về ước mơ, hoài bão của bản thân, những vướng mắc gặp phải, những mong muốn, đề xuất (nếu có)…

Trong sinh hoạt 15 phút đầu giờ, giáo viên lên kế hoach cụ thể cho từng buổi và phân công cho từng cá nhân phụ trách. Trong tuần, ngoài nội dung bắt buộc theo quy định của Đoàn trường, giáo viên có thể dành hai buổi để học sinh trao đổi ước mơ, hoài bão, định hướng nghề nghiệp, hoặc tìm hiểu về gương người tốt, việc tốt nhất là các tấm gương vượt khó vươn lên trong học tập…

6. Học sinh rèn ý thức tự giáo dục bằng sổ tự cập nhật

Cùng với việc thực hiện, phát huy tác dụng của sổ liên lạc, sổ chủ nhiệm, sổ ghi chép của lớp trưởng, lớp phó, cán sự bộ môn, tổ trưởng, nhiều giáo viên chủ nhiệm công phu sáng tạo, biến quá trình quản lý, giáo dục thành quá trình tự giáo dục của trò bằng một loại sổ thật đơn giản, nhưng thật ý nghĩa.

Các cô giáo nên lập một quyển sổ với tên “nhật kí học tập” và treo vào vị trí trang trọng trong lớp. Ở sổ này, sau mỗi buổi học, học sinh có thành tích tốt và bị phê bình, nhắc nhở tự ghi nhật ký, có chữ ký xác nhận của tổ trưởng.

Mỗi tuần, giáo viên chủ nhiệm tổng kết nhận xét, đánh giá, khen thưởng và phê bình, nhắc nhở kịp thời.

8. Kết hợp với Chi hội cha mẹ học sinh, gia đình học sinh

Khi làm công tác chủ nhiệm, giáo viên cần: Tổ chức và thực hiện tốt các kỳ họp phụ huynh học sinh do nhà trường đề ra.

Đi thăm trao đổi trực tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại với gia đình học sinh khi cần thiết.

Mời phụ huynh học sinh đến trường trao đổi về việc giáo dục học sinh khi có những hiện tượng bất thường và khẩn cấp.

Liên hệ thường xuyên với Ban chấp hành Hội phụ huynh học sinh để tích cực hóa các hoạt động của hội phụ huynh học sinh trong công tác giáo dục.

Mỗi chủ điểm sinh hoạt trọng tâm mời Chi hội trưởng Hội phụ huynh học sinh dự buổi sinh hoạt ngoại khóa.

Thiết lập mối quan hệ giữa nhà trường và gia đình qua sổ liên lạc và qua điện thoại.

Cung cấp cho phụ huynh số điện thoại của giáo viên chủ nhiệm để phụ huynh tiện liên hệ khi cần thiết.

9. Kết hợp chặt chẽ với các đoàn thể

Giáo viên chủ nhiệm phải nắm bắt được kế hoạch của nhà trường, Đoàn thanh niên để phối hợp và phổ biến kịp thời đến học sinh.

Thường xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em tham gia tốt các hoạt động đoàn thể, phong trào thi đua do đoàn thể phát động.

Thường xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em thực hiện tốt các các nội quy, quy định mà ban nề nếp của trường đề ra.

10. Giáo dục học sinh cá biệt

Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu lý lịch, tính cách học sinh, tìm hiểu điểm yếu, thế mạnh của những học sinh này. Kết hợp với giáo viên bộ môn, nhà trường, gia đình trong hoạt động giáo dục.

Giáo viên không nên nóng vội mà phải kiên trì uốn nắn dần; giao cho học sinh cá biệt một số việc phù hợp với năng lực; sau đó động viên khuyến khích kịp thời những việc làm tốt.

Lập kế hoạch cho cán sự lớp để thành lập các cặp đôi bạn cùng tiến. Luôn thông báo kịp thời các thông tin về học sinh với gia đình và ngược lại.

Phải gần gũi, thân thiện, biết lắng nghe để học sinh cá biệt giải bày được tâm tư, khúc mắc để cùng giáo viên bộ môn và gia đình phối hợp giáo dục.

III. Phương pháp dạy học ở Tiểu học

Phương pháp đặt và giải quyết vấn đề

Việc rèn cho học sinh biết phát hiện, đặt ra và giải quyết vấn đề gặp phải trong quá trình học tập là cách tốt để chuẩn bị hành trang phát triển nhanh theo cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt.

Cấu trúc của một bài học theo phương pháp này bao gồm

Đặt vấn đề và xây dựng bài toán nhận thức

Tạo tình huống có vấn đề

Phát hiện, nhận dạng vấn đề

Tìm ra vấn đề cần giải quyết

Giải quyết vấn đề

Đề xuất cách giải quyết

Lập kế hoạch giải quyết

Thực hiện kế hoạch giải quyết

Kết luận

Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đặt ra

Phát biểu kết luận

Đề xuất vấn đề mới

Phương pháp làm hoạt động nhóm

Đây là một trong các phương pháp dạy học ở tiểu học giúp các em gắn kết với nhau để đạt hiệu quả trong học tập. Khi cùng nhau thực hiện nhiệm vụ, các em sẽ có tư duy phân chia công việc, hỗ trợ lẫn nhau và khả năng quản lý nhóm.

Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả hoạt động chung của lớp. Nhóm cử ra đại diện để trình bày báo cáo kết quả nhóm, các thành viên còn lại lắng nghe, bổ sung và đặt câu hỏi.

Phương pháp vấn đáp

Phương pháp dạy học ở tiểu học này giáo viên sẽ đưa ra các câu hỏi để học sinh trả lời hoặc học sinh tranh luận với nhau và với giáo viên. Qua các hình thức học tập này, học sinh tiếp thu nhanh nội dung bài học

Các phương pháp vấn đáp bao gồm:

Vấn đáp tái hiện: giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã học và trả lời dựa vào trí nhớ, không cần suy luận.

Vấn đáp giải thích: Làm sáng tỏ một vấn đề nào đó, giáo viên đưa ra câu hỏi kèm ví dụ minh họa để học sinh dễ hiểu hơn.

Vấn đáp tìm tòi: giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lý để hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu

Giáo viên nêu câu hỏi hay vấn đề đang tìm hiểu sau đó khích lệ học sinh phát biểu và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt. Liệt kê, phân loại các ý kiến rồi tổng hợp và đưa ra kết luận về vấn đề tìm hiểu

Phương pháp thuyết trình

Dùng lời nói sinh động để trình bày tài liệu mới hoặc tổng kết những tri thức mà học sinh tiếp nhận được. Để đạt được hiệu quả cao với phương pháp này thì cần trình bày vấn đề một cách rõ ràng, chính xác, theo logic và có tính thực tiễn cao

Lời nói cần chuẩn xác, tốc độ và âm lượng vừa phải, hành vi cử chỉ phù hợp, phải biết cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề kết hợp với các phương pháp dạy học ở tiểu học khác.

IV. Kinh nghiệm làm giáo viên chủ nhiệm lớp

1. Tìm hiểu lí lịch học sinh, sắp xếp chỗ ngồi, bầu hội đồng tự quản:

– Ngay từ đầu năm học, khi nhận lớp việc đầu tiên là giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, trình độ học tập, cá tính riêng, mặt mạnh, mặt hạn chế của từng học sinh một cách tỉ mĩ.

– Tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Việc này giáo viên cần quan tâm đến thị lực, chiều cao, năng lực học tập và cả mặt mạnh, mặt hạn chế của từng em cũng như số lượng nam, nữ để phân chỗ ngồi phù hợp trong bàn, trong nhóm, trong tổ. Có thể phân công bàn nam bàn nữ hay một nam một nữ trong một bàn miễn sao tạo sự thoải mái, thân thiện để các em kết thành đôi bạn cùng tiến. Không nên sắp xếp hai học sinh ngồi chung bàn mà có ác cảm về nhau. Để các nhóm tự tìm tên cho nhóm mình

– GV chú ý nhiều hơn đến HS cá biệt (thường rơi vào HS xếp loại TB hoặc yếu). GV thường xuyên kể những mẫu chuyện trong tài liệu kĩ năng sống hoặc có thực trong cuộc sống mang tính giáo dục cao trong những giờ chơi để cảm hóa các em và giúp các em có ý thức học tập tốt hơn ; hoặc trong tiết học, tổ chức thay đổi nhiều hình thức vui chơi, lôi cuốn các em vào việc học tập như đố vui, trò chơi học tập.

– Bầu hội đồng tự quản . Đây là những thành viên chủ chốt trong lớp giúp việc rất nhiều cho giáo viên chủ nhiệm trong mọi hoạt động của lớp. Để lớp bầu một cách dân chủ nhưng phải có định hướng. Không để các em bầu theo cảm tính tùy tiện.

– Giao việc nhóm trưởng thường xuyên kiểm tra bài cũ và chuẩn bị bài mới trước giờ vào lớp. GV chủ nhiệm có mặt để cùng đôn đốc nhắc nhở. Thỉnh thoảng, GV cho lớp tự quản để kiểm tra ý thức của các em, từ đó phát hiện và nhắc nhở kịp thời.

2. Xây dựng nền nếp kỉ luật trong giờ học:

– Hướng dẫn HS học tập nội quy của nhà trường (cây điều cam kết), (Những điều em muốn nói), ..,vào những ngày trong tuần đầu ổn định nề nếp lớp.

– Phổ biến một số nội quy riêng của lớp đến HS như cách giơ tay phát biểu, tư thế ngồi học, cách trình bày ý kiến, cách nhận xét bạn trả lời và bổ sung ý kiến cho bạn vv…

– Liên hệ với giáo viên bộ môn để phát hiện kịp thời các đối tượng nói chuyện, làm ồn trong giờ học để có biện pháp nhắc nhở thích hợp.

– Hàng tuần các HS vi phạm phải nhắc nhở GV chủ nhiệm gửi thư mời phụ huynh kịp thời để cùng phối kết hợp giáo dục các em.

– Không cho HS làm việc riêng trong giờ học, phát huy tối đa năng lực của nhóm trưởng trong hoạt động nhóm. Khi hoạt động cả lớp yêu cầu HS chú ý lắng nghe GV giảng dạy. Đẩy mạnh thi đua trong tổ, thi đua cá nhân để tạo điều kiện cho HS phấn đấu.

– Lập bảng thi đua, thưởng cờ, những em chưa tự tin chỉ cần có tiến bộ nhỏ là GV động viên, khuyến khích kịp thời.

– Đối với những em thường xuyên nói chuyện riêng trong giờ học giáo viên nên cho em đó giữ chức vụ Trưởng ban kỷ luật nhóm. Khi có chức vụ các em sẽ có trách nhiệm và hạn chế được khuyết điểm. GV luôn tìm cái hay nhất của HS để phát huy, biểu dương trước lớp dù là ưu điểm nhỏ để dần dần lấn át cái chưa hay và trở thành HS ngoan.

3. Xây dựng nền nếp giờ sinh hoạt lớp:

– Trong giờ sinh hoạt lớp, GV chủ nhiệm yêu cầu các tổ báo cáo tình hình thực hiện nội quy của HS trong tổ.

– Nhận xét và đưa ra kế hoạch hoạt động cho tuần sau.

– GV nhắc nhở các em và bổ sung và nhận xét kế hoạch hoạt động của chủ tịch HĐTQ cho phù hợp .

– Xử lý kịp thời các HS vi phạm trong tuần.

– Có kế hoạch khen thưởng, nêu gương HS chăm ngoan học giỏi, tích cực.

– Liên hệ chặt chẽ với GV bộ môn để giáo dục HS vi phạm

– Giáo dục các HS còn làm ồn trong giờ tự quản.

4. Hình tượng của giáo viên:

GV chủ nhiệm đóng vai trò chủ đạo trong việc giáo dục HS, vì thế GV phải luôn là tấm gương sáng cho HS noi theo, dạy dỗ các em bằng tình yêu thương đúng với câu “Cô giáo như mẹ hiền” ; gần gũi, sẵn sàng giúp đỡ những em có hoàn cảnh khó khăn trong học tập. GV cần bồi dưỡng cho các em những gương điển hình, gương người tốt việc tốt, những chuẩn mực đạo đức tốt, kĩ năng sống và quan trọng hơn là tạo niềm tin trong mỗi HS. Có như vậy mới tạo chất men thúc đẩy các em có ý thức tốt trong đạo đức cũng như trong học tập. Đặc biệt đối với học sinh phải công bằng và không nên hứa với các em mà không giữ lời.

– GV chủ nhiệm lớp thường xuyên theo dõi ghi nhận để nắm được tình hình học tập, đạo đức, sự chuyển biến (tốt hay xấu) của HS để có biện pháp xử lý kịp thời hay tuyên dương đúng lúc; nắm tâm lý của HS; luôn gần gũi, sẵn sàng giúp đỡ, tạo niềm tin cho các em, không tỏ thái độ bực dọc khi lên lớp.

Một Số Phương Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Môn Thủ Công Lớp 2

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC GIÁO DỤC THỦ CÔNG LỚP 2.

Môn Thủ công là môn nghệ thuật mang tính thực hành cao, đòi hỏi độ chính xác, khéo léo và tư duy sáng tạo cái mới. Qua môn học này kích thích tư duy sáng tạo, khả năng thẩm mỹ, lòng say mê tìm tòi ở học sinh mà chúng ta khó nhận biết ở những môn học khác.Môn học còn giúp học sinh nâng cao khả năng thực hành, quan sát nhạy bén. Biết biến những ngôn ngữ, hình ảnh trừu tượng thành những thao tác cụ thể.Tăng cường khả năng hoạt động trí óc, lẫn tay chân cho học sinh.Đặc điểm của các giờ học Thủ công là hoạt động học lí thuyết gắn với hoạt động thực hành, mà trong đó hoạt động thực hành giữ vị trí trung tâm của giờ học. Đối với học sinh lớp 1, 2, 3 nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, việc học Thủ công phải nhẹ nhàng, khéo léo sinh động theo kiểu vừa học vừa chơi.Để đạt được yêu cầu trên mỗi giáo viên và học sinh phải đổi mới cách dạy và cách học.Đặc biệt là giáo viên phải đổi mới phương pháp, hình thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Chính vì những lí do trên mà hôm nay khối lớp 2 chúng tôi mạnh dạn xây dựng chuyên đề “Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy học giáo dục Thủ công lớp 2.”II. THỰC TRẠNG1. Thuận lợi:1.1.Nhà trường:Nhà trường quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy và học.Triển khai các công văn, văn bản về đổi mới phương pháp dạy học kịp thời.1.2. Giáo viên:Giáo viên được tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học hàng năm. Được tập huấn các lớp dạy học theo mô hình trường học mới VNEN.1.3. Phụ huynh:Phụ huynh mua sắm tương đối đầy đủ đồ dùng, dụng cụ học tập cho học sinh.

Đa số các em ngoan, chăm, chịu khó trong việc học.Chương trình mang tính vừa sức, sát thực tế nên học sinh hứng thú khi học.2. Khó khăn:2.1.Giáo viên:Giáo viên vận dụng phương pháp mới vào dạy Thủ công chưa linh hoạt.Đồ dùng dạy học chưa đảm bảo, chưa có tranh quy trình phóng to.Một số bài có nội dung dài nên khó đảm bảo thời gian để hoàn thành sản phẩm tại lớp.

Một số em còn mang tính ỉ lại luôn trông chờ vào sự giúp đỡ của thầy cô. Kỹ năng tự phục vụ bản thân chưa cao. Một số học sinh thiếu dụng cụ, vật liệu học tập và biện hộ là để quên ở nhà.

Qua một thời gian áp dụng thí điểm chuyên đề chúng tôi thu được một số thành quả như sau:Học sinh yêu thích môn học, hồi hộp chờ đón và reo vui chào đón cô giáo dạy Thủ công.Không khí mỗi giờ học trở nên sôi nổi, tất cả học sinh hứng thú, bận rộn làm sản phẩm.Học sinh làm được các sản phẩm đẹp, sáng tạo hơn.

Người viết

Nguyễn Thị Hằng

Cập nhật thông tin chi tiết về Biện Pháp Về Công Tác Chủ Nhiệm Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Học Tập trên website Channuoithuy.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!